Tinh dầu
Tinh dầu thiên nhiên |
---|
Loại |
Công dụng |
Các thành phần |
Tinh dầu là chất lỏng cô đặc có tính kỵ nước, chứa các hợp chất hóa học bay hơi (dễ bay hơi ở nhiệt độ thường) được chiết xuất từ thực vật. Tinh dầu thường chiết xuất bằng chưng cất, thường sử dụng hơi nước. Các phương pháp khác bao gồm ép, chiết xuất bằng dung môi, sfumatura, chiết xuất dầu absolute, khai thác nhựa cây, đổ khuôn trong sáp, và ép lạnh. Người ta sử dụng tinh dầu trong nước hoa, mỹ phẩm, xà phòng, chất làm thơm không khí, và nhiều sản phẩm khác. Tinh dầu còn được dùng làm gia vị trong thực phẩm và đồ uống, hoặc tạo mùi hương cho nhang và các sản phẩm tẩy rửa gia dụng.
Tinh dầu thường dùng trong liệu pháp mùi hương, một phương pháp y học thay thế cho rằng các hợp chất có mùi thơm có tác dụng chữa bệnh. Liệu pháp mùi hương có thể giúp thư giãn, nhưng chưa có đủ bằng chứng khoa học chứng minh tinh dầu có thể điều trị hiệu quả bất kỳ bệnh lý nào.[1] Sử dụng tinh dầu không đúng cách có thể gây hại, bao gồm dị ứng, viêm nhiễm và kích ứng da. Trẻ em đặc biệt nhạy cảm với các tác hại của việc sử dụng sai cách.[2][3] Tinh dầu có thể gây ngộ độc khi uống hoặc thẩm thấu qua da.[3]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Nhựa từ các loại hương liệu và chiết xuất từ thực vật được giữ lại để làm ra các sản phẩm truyền thống như y học cổ truyền, nước hoa, và nhang. Ví dụ như nhũ hương, mộc dược, gỗ tuyết tùng, quả bách xù và quế trong nền văn minh Ai Cập cổ đại có thể chứa tinh dầu.[4][5] Vào năm 1923, khi các nhà khảo cổ học khám phá lăng mộ của Pharaon Tutankhamun, họ tìm thấy 50 lọ đựng tinh dầu bằng đá cẩm thạch.[5]
Tinh dầu đã được dùng trong y học dân gian qua hàng thế kỷ. Thầy thuốc nổi tiếng người Ba Tư, Ibn Sina (được gọi là Avicenna ở châu Âu), là người đầu tiên chưng cất hoa để lấy hương thơm.[6] Cũng có ghi chép sớm nhất về cách sản xuất tinh dầu từ Ibn al-Baitar (1188–1248), một thầy thuốc và nhà hóa học nổi tiếng ở Al-Andalus (Tây Ban Nha Hồi giáo).[7]
Ngày nay, thay vì gọi tên các loại tinh dầu cụ thể, người ta thường nói về các hợp chất hóa học trong tinh dầu, như methyl salicylate thay vì "dầu cây lộc đề".[8][9]
Tinh dầu còn được sử dụng trong liệu pháp mùi hương, một phương pháp của y học thay thế giúp cơ thể thư giãn và trị liệu bằng hương liệu. Tinh dầu có thể được bay hơi, pha loãng trong dầu nền, dùng trong massage, khuếch tán vào không khí, hoặc đốt cháy như nhang.[10]
Nguyên liệu
[sửa | sửa mã nguồn]Tinh dầu được sản xuất từ các thành phần khác nhau của cây cỏ:
vỏ
· Quế · Tiêu · Cannabis · hops · Jasmine · Manuka · trái cam · Hoa hồng |
Lá
· Húng quế · Buchu · Quế · Bạch đàn · Trái ổi · cộng sả · tràm · loại cây có mùi thơm ở ấn độ · Cây Tràm Trà · xạ hương · Tsuga Vỏ quả · Bưởi · Chanh · Cam · Quýt |
nhựa thông
· benzoin · riềng · gừng · cây hồi · Buchu · Cần tây · Cây gai · long nảo · Trầm |
Độc tính
[sửa | sửa mã nguồn]Độc tính của tinh dầu phụ thuộc vào độ tinh khiết và các thành phần hóa học có trong dầu.[3] Nhiều loại tinh dầu được sản xuất để sử dụng trong liệu pháp mùi hương, không nên bôi trực tiếp lên da nếu chưa pha loãng. Một số loại có thể gây kích ứng da, phản ứng dị ứng và theo thời gian có thể gây hại cho gan. Nếu nuốt phải hoặc thoa lên da, tinh dầu có thể gây ngộ độc với các triệu chứng như lú lẫn, khó thở, viêm phổi, co giật hoặc thậm chí hôn mê.[3]
Một số tinh dầu từ vỏ cam quýt làm da nhạy cảm hơn với ánh nắng mặt trời, dễ gây bỏng da hoặc kích ứng khi tiếp xúc với ánh nắng.[11]
Những người làm việc với tinh dầu trong ngành công nghiệp nên tham khảo các bảng hướng dẫn an toàn để biết các nguy cơ và cách sử dụng an toàn.[3] Ngay cả các loại tinh dầu được coi là an toàn cũng có thể gây hại cho người bị động kinh hoặc phụ nữ mang thai.
Trẻ em có thể gặp nguy hiểm khi sử dụng tinh dầu do làn da mỏng và gan chưa phát triển đầy đủ, làm cho các em dễ bị tác động bởi độc tính của tinh dầu hơn so với người lớn.[3]
Tính dễ cháy
[sửa | sửa mã nguồn]Mỗi loại tinh dầu có một điểm chớp cháy khác nhau. Nhiều loại tinh dầu như tràm trà, oải hương và các loại từ cam quýt nằm trong nhóm Chất lỏng dễ cháy loại 3 vì điểm chớp cháy của chúng nằm trong khoảng 50–60 °C.
Vú to ở nam giới
[sửa | sửa mã nguồn]Nghiên cứu in vitro chỉ ra tinh dầu tràm trà và oải hương có hoạt tính tương tự estrogen và chống androgen. Một số báo cáo cho thấy tinh dầu oải hương có thể gây ra hiện tượng vú to ở nam giới ở các bé trai chưa dậy thì. Đây là sự phát triển bất thường của mô ngực.[12][13] Ủy ban Khoa học của Liên minh Châu Âu đã bác bỏ những tuyên bố liên quan đến tinh dầu tràm trà, nhưng không đưa ra kết luận về tinh dầu oải hương.[14] Năm 2018, một báo cáo từ BBC cho biết nghiên cứu phát hiện tinh dầu tràm trà và oải hương chứa tám hợp chất khi thử nghiệm trên tế bào đã làm tăng estrogen và giảm testosterone. Một số hợp chất này còn có mặt trong ít nhất 65 loại tinh dầu khác. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa thử nghiệm trên động vật hoặc con người.[15]
Xử lý
[sửa | sửa mã nguồn]Tinh dầu có thể gây viêm da khi tiếp xúc.[16][17][18] Do có thể làm hư hại cao su và nhựa, cần chọn thiết bị phù hợp khi sử dụng. Ống tiêm thủy tinh thường được dùng, nhưng có vạch chia thô. Ống tiêm hóa học là lựa chọn tốt hơn, chúng chịu được tác động của tinh dầu, đủ dài để lấy tinh dầu từ các bình chứa sâu, có vạch chia nhỏ, giúp kiểm soát chất lượng. Khác với pipet thông thường khó xử lý chất lỏng đặc, ống tiêm hóa học hay pipet dịch chuyển tích cực có piston trượt bên trong, giúp loại bỏ tinh dầu bám trên thành ống.
Tiêu thụ qua đường ăn uống
[sửa | sửa mã nguồn]Một số tinh dầu được coi là an toàn để dùng làm hương liệu trong thực phẩm, đồ uống, và bánh kẹo theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về sản xuất và tạo hương.[19] Tuy nhiên, khi sử dụng tinh dầu trong y học, cần tuân theo các quy chuẩn về dược liệu. Một số tinh dầu có thể gây nguy hiểm cho động vật, đặc biệt là mèo.[20] Ngoài ra, một số tinh dầu có thể gây ra sẩy thai nếu phụ nữ mang thai dùng với liều lượng từ 0,5 đến 10 mL. Vì vậy, phụ nữ trong thời kỳ mang thai nên cẩn trọng khi sử dụng tinh dầu.
Dư lượng thuốc trừ sâu
[sửa | sửa mã nguồn]Nhiều người lo ngại về dư lượng thuốc trừ sâu trong tinh dầu, đặc biệt là các loại dùng cho mục đích trị liệu, nên thường chọn mua tinh dầu sản xuất theo phương pháp hữu cơ. Dù thuốc trừ sâu có thể tồn tại với lượng rất nhỏ trong tinh dầu, nhưng việc sử dụng tinh dầu thường chỉ với liều lượng thấp và pha loãng. Đối với tinh dầu thực phẩm như bạc hà hay cam, ngoài việc chọn sản phẩm hữu cơ, cần xem xét kỹ phân tích về dư lượng thuốc trừ sâu để đảm bảo sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn an toàn.[21]
Phụ nữ mang thai
[sửa | sửa mã nguồn]Một số tinh dầu có thể chứa các chất gây hại cho phụ nữ mang thai như tạp chất hoặc chất phụ gia không an toàn.[22] Dù có những loại tinh dầu an toàn trong thai kỳ, cần phải chọn kỹ sản phẩm có chất lượng tốt và phù hợp. Phụ nữ mang thai thường nhạy cảm hơn với mùi, dẫn đến các phản ứng như đau đầu, chóng mặt hoặc buồn nôn khi tiếp xúc với tinh dầu. Nhiều phụ nữ trong thời gian mang thai nhận thấy mùi và vị thay đổi bất thường,[23] và việc tiêu thụ tinh dầu có thể làm tình trạng này tồi tệ hơn, gây kích ứng hoặc buồn nôn.[3]
Độc học
[sửa | sửa mã nguồn]Bảng dưới đây liệt kê giá trị LD50 hoặc liều gây chết trung bình cho một số loại tinh dầu phổ biến; đây là liều lượng cần thiết để giết chết một nửa số cá thể trong quần thể động vật được thử nghiệm. LD50 chỉ mang tính tham khảo, và các giá trị được báo cáo có thể thay đổi đáng kể do sự khác biệt về loài và điều kiện thử nghiệm.[24]
Tên phổ biến | LD50 qua đường uống | LD50 qua da | Ghi chú |
---|---|---|---|
Neem | 14 g/kg | >2 g/kg | |
Chanh myrtle | 2,43 g/kg | 2,25 g/kg | |
Nhũ hương | >5 g/kg | >5 g/kg | Boswellia carterii |
Nhũ hương | >2 g/kg | >2 g/kg | Boswellia sacra |
Nhũ hương Ấn Độ | >2 g/kg | >2 g/kg | Boswellia serrata |
Hoàng lan | >5 g/kg | >5 g/kg | |
Gỗ tuyết tùng | >5 g/kg | >5 g/kg | |
Cúc La Mã La Mã | >5 g/kg | >5 g/kg | |
Long não trắng | >5 g/kg | >5 g/kg | Cinnamomum camphora, chiết xuất từ lá |
Long não vàng | 3,73 g/kg | >5 g/kg | Cinnamomum camphora, chiết xuất từ vỏ cây |
Dầu nóng | 3,80 g/kg | >5 g/kg | Cinnamomum camphora, dầu chiết xuất từ lá |
Quế | 2,80 g/kg | 0,32 g/kg |
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Lee, Myeong Soo; Choi, Jiae Choi (2012). “Aromatherapy for health care: an overview of systematic reviews”. Maturitas. 3 (71): 257–260. doi:10.1016/j.maturitas.2011.12.018. PMID 22285469.
- ^ Posadzki, P; Alotaibi, A; Ernst, E (2012). “Adverse effects of aromatherapy: A systematic review of case reports and case series”. The International Journal of Risk & Safety in Medicine. 24 (3): 147–61. doi:10.3233/JRS-2012-0568. PMID 22936057.
- ^ a b c d e f g “Essential oils: Poisonous when misused” (bằng tiếng Anh). US National Capital Poison Center. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2017.
- ^ K. Husnu Can Baser; Gerhard Buchbauer (28 tháng 12 năm 2009). Handbook of Essential Oils: Science, Technology, and Applications. CRC Press. ISBN 978-1-4200-6316-5.
- ^ a b Jordan Rubin (17 tháng 1 năm 2017). Essential Oils: Ancient Medicine for a Modern World. Destiny Image Publishers. ISBN 978-0-7684-1188-1.
- ^ Essa, Ahmed; Ali, Othman (2010). Studies in Islamic Civilization: The Muslim Contribution to the Renaissance (bằng tiếng Anh). International Institute of Islamic Thought (IIIT). tr. 70. ISBN 978-1-56564-350-5.
- ^ Houtsma, M.Th. (1993). E. J. Brill's First Encyclopaedia of Islam, 1913–1936. 4. Brill. tr. 1011–. ISBN 978-90-04-09790-2.
- ^ Gilman, A. G.; Rall, T. W.; Nies, Alan S.; Taylor, Palmer biên tập (1990). Goodman & Gilman's The Pharmacological Basis of Therapeutics (ấn bản thứ 8). New York: Pergamon. ISBN 978-0-08-040296-3. [cần số trang]
- ^ Klaassen, Curtis D.; Amdur, Mary O.; Casarett, Louis J.; Doull, John (1991). Casarett and Doull's Toxicology: The Basic Science of Poisons. New York: McGraw-Hill. ISBN 978-0-07-105239-9.[cần số trang]
- ^ “Aromatherapy: Uses, benefits, oils, and risks”. www.medicalnewstoday.com (bằng tiếng Anh). 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
- ^ Kaddu, Steven; Kerl, Helmut; Wolf, Peter (2001). “Accidental bullous phototoxic reactions to bergamot aromatherapy oil”. Journal of the American Academy of Dermatology. 45 (3): 458–61. doi:10.1067/mjd.2001.116226. PMID 11511848.
- ^ Henley, Derek V.; Lipson, Natasha; Korach, Kenneth S.; Bloch, Clifford A. (2007). “Prepubertal Gynecomastia Linked to Lavender and Tea Tree Oils”. New England Journal of Medicine. 356 (5): 479–85. doi:10.1056/NEJMoa064725. PMID 17267908.
- ^ Diaz A, Luque L, Badar Z, Kornic S, Danon M (2016). “Prepubertal gynecomastia and chronic lavender exposure: report of three cases”. J. Pediatr. Endocrinol. Metab. 29 (1): 103–107. doi:10.1515/jpem-2015-0248. PMID 26353172. S2CID 19454282.
- ^ Scientific Committee on Consumer Products (16 tháng 12 năm 2008), Opinion on tea tree oil (PDF), Directorate-General for Health and Consumers: European Commission: European Union
- ^ “More evidence essential oils 'make male breasts develop'”. BBC News. BBC. 18 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2018.
A suspected link between abnormal breast growth in young boys and the use of lavender and tea tree oils has been given new weight, after a study found eight chemicals contained in the oils interfere with hormones.
- ^ Trattner, Akiva; David, Michael; Lazarov, Aneta (2008). “Occupational contact dermatitis due to essential oils”. Contact Dermatitis. 58 (5): 282–4. doi:10.1111/j.1600-0536.2007.01275.x. PMID 18416758. S2CID 10674102.
- ^ Bleasel, Narelle; Tate, Bruce; Rademaker, Marius (2002). “Allergic contact dermatitis following exposure to essential oils”. Australasian Journal of Dermatology. 43 (3): 211–3. doi:10.1046/j.1440-0960.2002.00598.x. PMID 12121401. S2CID 46674505.
- ^ Isaksson, M; Brandão, F. M.; Bruze, M; Goossens, A (2000). “Short Communications”. Contact Dermatitis. 43 (1): 41–2. doi:10.1034/j.1600-0536.2000.043001041.x. PMID 10902588. S2CID 221576846.
- ^ “CFR - Code of Federal Regulations Title 21”. www.accessdata.fda.gov. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2018. Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
- ^ Bischoff, K.; Guale, Fessesswork (1998). “Australian Tea Tree (Melaleuca Alternifolia) Oil Poisoning in Three Purebred Cats”. Journal of Veterinary Diagnostic Investigation. 10 (2): 208–10. doi:10.1177/104063879801000223. PMID 9576358.
- ^ Menary, RC (2008). Minimising pesticide residues in essential oils. Rural Industries Research and Development Corporation. ISBN 978-1-74151-709-5.[cần số trang]
- ^ “Management of severe nausea and vomiting in pregnant women”. Clinical Pharmacist. 2013. doi:10.1211/cp.2013.11131205. ISSN 2053-6178.
- ^ Nordin, S.; Broman, D. A.; Olofsson, J. K.; Wulff, M (2004). “A Longitudinal Descriptive Study of Self-reported Abnormal Smell and Taste Perception in Pregnant Women”. Chemical Senses. 29 (5): 391–402. doi:10.1093/chemse/bjh040. PMID 15201206.
- ^ Dweck, AC (tháng 9 năm 2009). “Toxicology of essential oils reviewed” (PDF). Personal Care. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2011.