Bước tới nội dung

Nico Hülkenberg

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nico Hülkenberg
SinhNicolas Hülkenberg
19 tháng 8, 1987 (37 tuổi)
Emmerich am Rhein, North Rhine-Westphalia, Tây Đức
Phối ngẫu
Eglė Ruškytė (cưới 2022)
Con cái1
Websitewww.nicohulkenberg.net
Sự nghiệp Công thức 1
Quốc tịchĐức Đức
Đội đua năm 2024Haas-Ferrari[1]
Số xe đua27
Số chặng đua tham gia227 (224 lần xuất phát)
Vô địch0
Chiến thắng0
Số lần lên bục trao giải0
Tổng điểm561
Vị trí pole1
Vòng đua nhanh nhất2
Chặng đua đầu tiênGiải đua ô tô Công thức 1 Bahrain 2010
Chặng đua gần nhất/cuối cùngGiải đua ô tô Công thức 1 São Paulo 2024
Kết quả năm 2023Hạng 16 (9 điểm)
Giải đua trước
2009
2008–2009
20072008
2006–2007
2006
2005
GP2 Series
GP2 Asia Series
F3 Euro Series
A1 Grand Prix
German F3
Formula BMW ADAC
Danh hiệu vô địch
2009
2008
2006–07
2005
GP2 Series
F3 Euro Series
A1 Grand Prix
Formula BMW ADAC

Nicolas "Nico" Hülkenberg (phát âm tiếng Đức: [ˈniːko ˈhʏlkənbɛɐ̯k], sinh ngày 19 tháng 8 năm 1987 tại Emmerich am Rhein) là một tay đua người Đức.

Anh là nhà vô địch giải đua GP2 Series vào năm 2009 và bắt đầu sự nghiệp Công thức 1 của mình vào năm 2010 với Williams. Trong suốt mùa giải đầu tiên Công thức 1 của mình, anh đã giành được vị trí pole đầu tiên cho Williams sau hơn 5 năm nhưng không được giữ lại cho năm 2011. Sau đó, anh gia nhập Force India với tư cách là tay đua lái thử và dự bị. Vào năm 2012, anh được thăng hạng lên vị trí tay đua chính thức với đội. Năm 2013, anh đua cho Sauber với tay đua người Mexico Esteban Gutiérrez[2]. Sau đó, anh trở lại Force India vào năm 2014 cho đến năm 2016. Năm 2015, anh giành chiến thắng trong giải đua Le Mans 24h. Sau khi mùa giải 2016 kết thúc, anh thi đấu cho Renault từ năm 2017 đến năm 2019 và sau năm 2019, hợp đồng của anh với Renault không được gia hạn cho năm 2020[3]. Tuy nhiên, anh quay trở lại Công thức 1 với Racing Point sau khi Sergio PérezLance Stroll phải nghỉ thi đấu do nhiễm COVID-19[4][5]. Vào năm 2022, anh tiếp quản chỗ đua của Sebastian Vettel do Vettel nhiễm COVID-19 tại Aston Martin. Vào mùa giải 2023, anh sẽ đua với Haas F1 với tư cách là tay đua chính[6].

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự nghiệp Công thức 1 (2010-)

[sửa | sửa mã nguồn]

2010: Bắt đầu sự nghiệp Công thức 1 với Williams

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2010, Nico Hülkenberg đua cho Williams cùng với tay đua giàu kinh nghiệm người Brazil Rubens Barrichello. Anh có một khởi đầu khó khăn mặc dù xuất phát từ vị trí thứ năm ở Malaysia sau khi chỉ về đích ở vị trí thứ mười. Thế nhưng, anh bắt đầu tiến bộ và thường xuyên lọt vào top 10. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Hungary, anh đạt được kết quả tốt nhất trong mùa giải này sau khi về đích ở vị trí thứ sáu.

Tại giải đua ô tô Công thức 1 Braziltrường đua José Carlos Pace, anh giành được vị trí pole đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1 của mình[7] nhưng trong cuộc đua, anh chỉ về đích ở vị trí thứ tám. Ngày hôm sau, Williams thông báo rằng hợp đồng của anh sẽ không được gia hạn cho năm sau.

Hülkenberg kết thúc mùa giải đầu tiên của mình ở Công thức 1 ở vị trí thứ 14 với 22 điểm.

Force India (2011-2012)

[sửa | sửa mã nguồn]
2011: Gia nhập với tư cách là tay đua lái thử và dự bị
[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 26 tháng 1 năm 2011, Hülkenberg gia nhập Force India với tư cách là tay đua dự bị cho mùa giải 2011 và tham gia vào các buổi tập vào thứ Sáu. Anh thay thế Paul di Resta do di Resta được thăng chức lên vị trí tay đua chính thức. Trong mùa giải này, Hülkenberg tham gia trong các buổi tập đầu tiên của tất cả các cuộc đua ngoại trừ Monaco, Hungary, Hàn Quốc, Ấn Độ và Abu Dhabi.

2012: Quay trở lại với tư cách là tay đua chính
[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 16 tháng 12 năm 2011, Force India thông báo rằng di Resta và Hülkenberg sẽ là tay đua chính của đội cho mùa giải 2012. Hülkenberg vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ chín tại giải đua ô tô Công thức 1 Úc nhưng cuộc đua của anh kết thúc ngay ở vòng đua thứ 2 sau khi va chạm ở góc cua đầu tiên. Ngay tại chặng đua tiếp theo ở Malaysia, anh đã lấy được điểm đầu tiên cho Force India sau khi về đích ở vị trí thứ chín. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ, anh giành được kết quả tốt nhất trong sự nghiệp Công thức 1 của mình với vị trí thứ tư. Trong cuộc đua, anh đang ở vị trí thứ 2 trong cuộc đua sau khi bị Kimi RäikkönenSebastian Vettel vượt qua.

Trong chặng đua cuối cùng của mùa giải ở Brazil, Hülkenberg đã vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 7 nhưng được thăng lên vị trí thứ 6 sau khi Pastor Maldonado bị tụt mười vị trí. 19 vòng đua sau đó, Hülkenberg vượt qua Jenson Button để dẫn đầu cho đến vòng đua thứ 55 sau khi va chạm với Lewis Hamilton vì đuôi xe bị trượt ra ngoài khi cố gắng vượt qua Hamilton ở góc cua số 1. Cuộc va chạm này khiến Hamilton phải bỏ cuộc trong cuộc đua cuối cùng của mình với McLaren. Sau khi bị phạt do gây ra vụ va chạm này, Hülkenberg về đích ở vị trí năm và bỏ lỡ cơ hội lên bục vinh quang và đồng thời giành chiến thắng lần đầu tiên.

Sau khi mùa giải 2012 kết thúc, anh đứng ở vị trí thứ 11 trong bảng xếp hạng các tay đua với 63 điểm.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Formula 1: The Haas team to retain Nico Hulkenberg and Kevin Magnussen in 2024”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  2. ^ “Sauber sign Hulkenberg for 2013”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2023.
  3. ^ “Ocon to Renault for 2020: Ocon secures F1 return with Renault for 2020 in place of Hulkenberg | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2023.
  4. ^ PelLaurens (31 tháng 7 năm 2020). “Nico Hulkenberg will replace Sergio Pérez”. Let’s Talk Motorsport (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2023.
  5. ^ “BREAKING: Super sub Hulkenberg to replace unwell Stroll for remainder of Eifel GP weekend | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2023.
  6. ^ “Nico Hulkenberg to make full-time racing return to Formula 1 with Haas in 2023 | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2023.
  7. ^ “Hulkenberg grabs pole in Brazil” (bằng tiếng Anh). 6 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]



Thành tích
Tiền nhiệm:
Sebastian Vettel
Formula BMW ADAC
Nhà vô địch

2005
Kế nhiệm:
Christian Vietoris
Tiền nhiệm:
Nicolas Lapierre
Alexandre Prémat
(Team France)
A1 Grand Prix
Nhà vô địch
(Team Germany)

2006–07
Kế nhiệm:
Neel Jani
(Team Switzerland)
Tiền nhiệm:
Paul di Resta
Formula Three Masters
Chiến thắng

2007
Kế nhiệm:
Jules Bianchi
Tiền nhiệm:
Romain Grosjean
Formula 3 Euro Series
Nhà vô địch

2008
Kế nhiệm:
Jules Bianchi
Tiền nhiệm:
Giorgio Pantano
GP2 Series
Nhà vô địch

2009
Kế nhiệm:
Pastor Maldonado
Tiền nhiệm:
Marcel Fässler
André Lotterer
Benoît Tréluyer
Người chiến thắng giải đua

'''Le Mans 24h'''
2015

Kế nhiệm:
Romain Dumas
Neel Jani
Marc Lieb