Bước tới nội dung

Judas (bài hát)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Judas"
Đĩa đơn của Lady Gaga
từ album Born This Way
Phát hành15 tháng 4, 2011
Thu âm2010; Phòng thu Gang, Paris
Thể loạiDance-pop, electropop, techno
Thời lượng4:10
Hãng đĩaStreamline, Kon Live, Interscope
Sáng tácStefani Germanotta, Nadir Khayat[1]
Sản xuấtLady Gaga, RedOne
Thứ tự đĩa đơn của Lady Gaga
"Born This Way"
(2011)
"Judas"
(2011)
"The Edge of Glory"
(2011)

"Judas" là đĩa đơn chính thức thứ hai trích từ album phòng thu thứ hai mang tên Born This Way của nữ ca sĩ - nhạc sĩ người Mỹ Lady Gaga. Cũng giống như ca khúc "Born This Way", Gaga quyết định phát hành bài hát trên toàn thế giới sớm hơn bốn ngày (15 tháng 4) thay vì 19 tháng 4 như đã dự định vì trước đó Judas đã bị rò rỉ trên các trang mạng trực tuyến, buộc lòng Gaga phải tung đĩa đơn lên iTunes ngay lập tức. Được sáng tác, đồng sản xuất bởi Gaga và RedOne, bài hát nói về một cô gái đã yêu say đắm một chàng trai nhưng trớ trêu thay người ấy lại phản bội cô đồng thời thể hiện những điều đã ám ảnh cô trong quá khứ, qua đó đại diện cho một thứ gì đó xấu xa vẫn còn vương vấn trong tâm hồn cô gái - điều mà cô không thể thoát ra được. Gaga giải thích rằng đó cũng chính là "tôn vinh phần tăm tối trong con người bạn để đưa chúng ta đến với ánh sáng... Bạn phải nhìn trực diện vào những gì đang ám ảnh bạn và cần phải học tập cách tha thứ cho chính mình thì mới có thể tiến lên phía trước".[2]

"Judas" có những nét tương đồng với những đĩa đơn trước đây của Gaga như "Poker Face", "LoveGame", "Bad Romance", và "Alejandro", chứa ba đoạn hook riêng biệt và phần giang tấu chịu ảnh hưởng bởi thể loại nhạc house, mang đậm nét tribal-techno (một thể loại thuộc heavy metal) và dubstep (loại dance điện tử sử dụng bass nặng). Câu chuyện nói về một cuộc đối thoại thất bại về việc cô ấy không còn khả năng chuộc lại lỗi lầm của mình, dưới cái nhìn truyền thống mà người phụ nữ phải có. Bìa ảnh nghệ thuật của đĩa đơn được Gaga tự thiết kế bằng phần mềm soạn thảo văn bản Microsoft Word, nổi bật trên nền nâu đen là từ "Judas" được viết bằng chữ in hoa màu đỏ với phông chữ Impact, nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy bàn tay của Lady Gaga cầm cây thánh giá và ở tâm có trang trí thêm hình trái tim. Ca khúc được phát hành thông qua trang web truyền hình của cô ấy - Tranmission Gagavision. Các nhà phê bình đã chỉ ra những điểm tương đồng của "Judas" và "Bad Romance", nhưng đồng thời cũng đánh giá cao công đoạn sản xuất âm nhạc, khen ngợi cho năng lượng và sự giảm bớt các âm thanh điện tử.

Một video âm nhạc cho bài hát này được quay vào tháng 4 năm 2011, do Gaga và Laurieann Gibson đồng đạo diễn và có sự tham gia của Norman Reedus. Video có cốt truyện liên quan đến Kinh thánh, trong đó Reedus vào vai Giuđa Ítcariốt và Gaga vào vai Maria Madalena. Video miêu tả họ như những nhà truyền giáo thời hiện đại đến Jerusalem. Video bao gồm câu chuyện Kinh thánh về Giuđa phản bội Chúa Giê-su, và kết thúc bằng cảnh Gaga vào vai Magdalene bị ném đá đến chết. Trước khi phát hành, Liên đoàn Công giáo đã lên án Gaga vì sử dụng hình ảnh tôn giáo và vai trò của cô trong video. Tuy nhiên, video này nhìn chung được các nhà phê bình khen ngợi và được đề cử hai giải thưởng tại Giải Video âm nhạc của MTV năm 2011.

Bối cảnh ra đời

[sửa | sửa mã nguồn]
"Judas là một bài nhạc nhảy lôi cuốn và sôi động, chắc chắn thế rồi... Tôi nghĩ Judas mang đậm phong cách của RedOne và Gaga. Nó thật tuyệt bởi vì nó mang trong mình một thông điệp quan trọng, hơi khôi hài một chút, nhưng vẫn rất đúng đắn và Judas sẽ khiến bạn phải nhún nhảy theo nó cho dù bạn ở bất cứ nơi đâu. Đó chính là mấu chốt tài năng tuyệt vời ẩn sâu trong âm nhạc của cô ấy. Bạn biết đó, những ca khúc yêu thích mọi thời đại của tôi, một số bài hát nhạc dance như "Billie Jean" là một câu chuyện mà các bạn sẽ không nghĩ rằng nó có thể xâu chuỗi để kết thành lời được nhưng sau đó bạn buộc phải lắc lư và cất tiếng hát theo lời ca. Tôi nghĩ đó là Chén thánh âm nhạc trong bản thân mình."

Fernando Garibay cho biết thêm thông tin về đĩa đơn thứ hai "Judas"[3]

"Judas" được tiết lộ là tên đĩa đơn chính thức thứ hai của Lady Gaga trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Vogue.[4] Cô đã khẳng định điều đó trên chương trình phát thanh của Ryan Seacrest vào ngày 14 tháng 2 năm 2011 và đồng thời RedOne cũng được tiết lộ là người đồng sản xuất nên ca khúc.[5] Vào lễ trao giải Grammy lần thứ 53, anh đã nói với MTV News rằng nếu đĩa đơn trước đó là Born This Way, ca khúc "sẽ bùng nổ, thì sau đó bạn cần phải chờ đến đĩa đơn tiếp theo... Tôi sẽ không nói cho các bạn biết tên bài hát đâu, nhưng đĩa đơn tiếp theo, nó... Tôi không muốn nói đâu. Nó thật sự rất sốc... Bạn sẽ ngạc nhiên và điên lên mất thôi."[6] Fernando Garibay - một trong những nhà sản xuất của Born This Way cảm thấy rằng ca khúc đôi khi đã không được lựa chọn đúng. "Nhưng các bạn không thể phủ nhận rằng đôi khi sự lựa chọn không phải do chính các bạn quyết định", anh thêm vào.[3] Trên chương trình phát thanh mang tên Last Call with Carson Daly, Gaga giải thích với người dẫn chương trình Carson Daly rằng Judas "đề cập về việc luôn luôn yêu người đàn ông sai lầm đó nhiều hơn và hơn thế nữa. Judas là một bản nhạc rất tăm tối. Nó thật tuyệt."[2][7] Với MSN Canada, Gaga tiết lộ thêm về nội dung của ca khúc:

"Judas sử dụng phép ẩn dụ làm nền tảng để so sánh giữa những thứ tha và sự phản bội, những thứ đã ám ảnh thực tại của bạn và tôi tin rằng những điều tối tăm trong cuộc sống cuối cùng cũng sẽ tỏa sáng và ngày càng mang đến luồng sinh khí mạnh mẽ hơn để giúp chúng ta tiến lên phía trước. Một lần có ai đó nói với tôi là, 'Nếu bạn không có bóng tối thì bạn sẽ không đứng được trong ánh sáng'. Vì thế ca khúc là nỗi niềm mong muốn gột sạch kể cả điều thiện lẫn cái ác, sự cảm thông và tha thứ cho nhau về những điều độc ác trong quá khứ để tiến tới những thứ tuyệt vời ở tương lai. Tôi thích tấn công vào phép ẩn dụ này mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn, tối tăm hơn và cả những người hâm mộ của tôi cũng thế. Cho nên bài hát thật sự là nguồn cạnh tranh và tấn công vào tính ẩn dụ, nhưng nó vẫn mang bản chất vốn có của mình.[8]

Gaga giải thích rõ hơn về cảm hứng đằng sau ca khúc: "Đó chính là tiếng bước chân liên tục về phía ánh sáng trong cuộc đời tôi, luôn luôn giữ chặt nguồn năng lượng đó trong khi vẫn ngoảnh đầu lại nhìn về phía ma quỷ đằng sau... Tôi cất tiếng hát để cho mọi người thấy tôi là một con chiên ngoan đạo như thế nào, và mặc dù có nhiều thời điểm trong cuộc đời tôi thật ác nghiệt và những mối quan hệ của tôi có lẽ cũng tàn nhẫn không kém, dẫu vậy nhưng tôi vẫn yêu Judas. Tôi vẫn đi ngược về những điều ma xui quỷ khiến đó."[2] Trong cuộc phỏng vấn với Google, Gaga nói thêm về ý nghĩa của ca khúc: "tôn vinh sự đen tối trong con người bạn để mang lại cho chính bản thân mình những nguồn sáng... Bạn phải nhìn vào những gì đang ám ảnh bạn và cần phải học tập cách tha thứ cho bản thân để tiếp tục tiến lên con đường chông gai phía trước. Và ca khúc cũng thật thú vị để nhảy."[2] Gaga cũng giải thích trước đó với Popjustice rằng có rất nhiều điều đã ám ảnh cô trong quá khứ, về những sự lựa chọn, đàn ông, ma túy, nỗi sợ hãi khi trở về New York, đối đầu với mối tình cũ. Vì thế "Judas" đại diện cho một thứ gì đó thật xấu xa trong tâm hồn cô gái, chúng tạo rào cản để cô ấy không thể thoát ra được. Gaga nói: "Tôi tiếp tục qua lại giữa bóng tối và ánh sáng để nhận thức được tôi là ai."

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Garibay cho rằng "Judas" có phần âm nhạc mang nét tương tự với nhiều đĩa đơn trước đây của Gaga đồng sản xuất với RedOne như là "Poker Face," "LoveGame," "Bad Romance," và "Alejandro."[3] Theo Jocelyn Vena của MTV, "Judas" cho thấy được sở trường âm nhạc vốn có của Lady Gaga, nhưng thật ra cô ấy lại đang hướng đến một lĩnh vực âm nhạc hoàn toàn mới. Còn đối với Popjustice thì trong các đoạn hát Gaga lại chủ động chuyển đổi thành một nửa hát, nửa còn lại rap mang phong cách thổ ngữ Jamaica."[9] Bài hát có ba đoạn hook và bắt đầu với câu: "Ohhh, I'm in love with Judas", đi kèm theo là nhịp synths dồn dập. Với những nhịp đập điện tử mạnh, Gaga hát "Judahhh/ Juda-a-ah/ Gaga". Cách luyến những từ này làm ta liên tưởng đến phần mở đầu trong ca khúc "Bad Romance".[10] Giọng của Gaga một phần là nói, đồng thời mang ngữ điệu của người Caribbean. Đoạn nhạc đầu tiên có lời như sau: "When he comes to me I am ready/ I'll wash his feet with my hair if he needs/ Forgive him when his tongue lies through his brain/ Even after three times, he betrays me/ I'll bring him down, a king with no crown."[11] Quãng trưởng vui tươi trong phần điệp khúc của bài hát có giai điệu chịu ảnh hưởng của nhạc pop vào những năm 1980, hơi tăng tốc độ một chút và Gaga bắt đầu cất giọng: "I'm just a holy fool/ Oh, baby, he's so cruel/ But I'm still in love with Judas, baby."

Sau đoạn thứ hai là đến phần điệp khúc, ca khúc kết hợp lối giang tấu mang chất nhạc house. Gaga hát giống với đoạn nhạc nói tương tự như trong ca khúc "Born This Way" với câu: "I wanna love you/ But something's pulling me away from you/ Jesus is my virtue, Judas is the demon I cling to, I cling to."[10] Giọng của cô được so sánh với Rihanna bởi Matthew Perpetua của tạp chí Rolling Stone. Anh cũng cho biết thêm rằng chất giọng của Gaga không còn tối tăm và ảm đạm như trước, ngược lại rất "ngọt ngào và đáng yêu".[12] Popjustice viết rằng đoạn giang tấu mang phong cách tribal-techno, và cả bài là "một ca khúc nạp đầy electro nhưng không đúng chất".[9] Dan Martin từ NME viết rằng đoạn giang tấu thuộc thể loại dubstep (dance điện tử sử dụng bass rất nặng) với phần điệp khúc đậm chất pop.[13] Judas có một số điểm tương tự và chịu ảnh hưởng bởi "Bad Romance", Gaga cho đó là sự cố ý: "Đôi khi thật quan trọng để đẩy bản thân mình đến những ngã rẽ mới chuyên nghiệp hơn, nhưng nhiều lúc tôi lại muốn sử dụng những điều mình đã làm và chắc chắn rằng chúng đều ở đây, Judas là một trong những bản thu âm điển hình như thế. Tôi muốn ca khúc là một sự tiến triển từ những điều tôi làm trước đó nhưng vẫn với cách thức ấy, đồng thời tôi cũng muốn sở hữu một số thứ từ Judas sẽ làm mọi người liên tưởng đến những gì tôi đã thực hiện trong quá khứ"."[9]

Lady Gaga đăng trực tiếp một phần lời bài hát vào tháng hai trên các trang mạng xã hội.[14] Đến ngày 22 tháng 3 năm 2011, cô tiết lộ thêm lời bài hát của "Judas" trong cuộc phỏng vấn với Google. Gaga cũng khẳng định rằng ca khúc chịu ảnh hưởng bởi nhân vật Judas Iscariot trong kinh thánh.[11] Theo Popjustice, nhìn vẻ bề ngoài thì "Judas" là một bài hát nói về hai mặt trắng đen trong tình yêu ("even after three times he betrays me", thậm chí sau ba lần anh ấy vẫn phản bội tôi), dự tính để trả thù ("bring him down, I'll bring him down down, a king with no crown, a king with no crown", trừng phạt anh ta, tôi sẽ hạ bệ anh ta, một ông vua không có vương miện, một vị vua không có quyền lực), nhưng liên tục buồn rầu một cách thê thảm: "I'm just a holy fool but baby oh baby he's so cruel, but I'm still in love with Judas, baby" (Tôi chỉ là một con chiên ngoan đạo, còn hắn ta lại là một kẻ đầy dã tâm, nhưng tôi vẫn yêu Judas).[9] Trong đoạn middle 8 của ca khúc như sau, "In the most Biblical sense, I am beyond repentance. 'Fame hooker', 'prostitute wench', 'vomits her mind'... But in the cultural sense I just speak in future tense. Judas kiss me if offenced, or wear an ear condom next time" (Chiếu theo điều răn của Kinh Thánh, tôi đã không thể xưng tội được nữa, một con điếm của danh vọng, một ả lăng toàn, tất cả đang rửa trôi tâm trí cô ta. Nhưng xét về nền văn minh xã hội thì tôi đang đứng ở một tương lai không xa. Judas hôn tôi và nếu bị xúc phạm, thì hãy đeo bao vào tai), nói về việc cô ấy không thể chuộc lại lỗi lầm của mình, dưới quan niệm mà một người phụ nữ truyền thống phải có. "Nhưng tôi không muốn tự chuộc lỗi, bởi vì theo như xã hội thực tại, tôi vẫn tin rằng mình chỉ đi trước thời đại. Và nếu bạn không thích nghe nó, đeo một cái bao vào tai," Gaga giải thích. Phần chính của bài hát đề cập đến nỗi niềm sầu muộn của Gaga và đoạn middle 8 nói về hình ảnh của cô khi hiện diện trước công chúng, hai chủ đề này cũng được khám phá trong các ca khúc khác của album.

Ảnh bìa minh họa và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Tập 42 trong trang web truyền hình của Lady Gaga mang tên Transmission Gagavision tiết lộ rằng bìa ảnh minh họa kèm theo của đĩa đơn sẽ được Gaga thiết kế bằng phần mềm soạn thảo văn bản Microsoft Word, mô tả nền màu đen với chữ "Judas" được viết bằng chữ in hoa phông Impact. Bên dưới là biểu tượng thánh giá màu đỏ có hình trái tim ở giữa. Gaga đã chụp thiết kế này trên màn hình máy tính bằng điện thoại di động,[15] kết quả hiển thị là chữ cái và hình cây thánh giá đồng thời có sự phản ánh mờ nhạt gương mặt và cả bàn tay của Gaga đang cầm chiếc điện thoại cũng xuất hiện trên bìa đĩa.[15][16] Tập phim trình chiếu cảnh Gaga đang ngồi trong một cuộc họp với đội ngũ sáng tạo Haus of Gaga, họ đang thảo luận chi tiết cụ thể cho việc phát hành album. "Tôi không muốn có từ 'cao cấp' trên album": cô đặt điều kiện cho nhóm. "Tôi ghét từ đó."[15] Xung quanh Gaga có rất nhiều hình ảnh được MTV suy đoán là một vài thứ liên quan đến "Judas". Trong một bức ảnh có chữ "Judas" in chung với cây thánh giá. Jocelyn Vena từ MTV cảm thấy rằng bìa đĩa có thể xuất hiện dễ dàng trong phiên bản Romeo and Juliet (1996) của đạo diễn Baz Luhrmann.[15]

Trong tập 41 của Transmission Gagavision, Lady Gaga thông báo rằng "Judas" sắp được ra mắt.[17] Hãy để nền văn hóa rửa tội được bắt đầu. Nếu chúng không phải những gì mà bạn đã được dạy, liệu bạn có tin chúng không ?"[10] "Judas" dự kiến sẽ được gửi đến các đài phát thanh radio vào ngày 19 tháng 4 năm 2011 cũng như các nhà bán lẻ kỹ thuật số trong cùng ngày, nhưng sau đó ca khúc bị rò rỉ trên internet, do đó ca khúc được phát hành lùi lại vào ngày 15 tháng 4 năm 2011.[18][19] Điều này phải được thực hiện để chống rò rỉ. Trước khi phát hành, Gaga đã viết lên trang twitter của mình về đĩa đơn như sau: "#PawsUpForJudas! (PawsUp nghĩa là động tác giơ móng vuốt) Tôi đã được dạy rằng tình yêu là một viên gạch, bạn có thể dùng chúng để xây một căn nhà hoặc để chôn xác người chết." Vào ngày 15 tháng 4 năm 2011, vài giờ trước khi ca khúc được phát trên radio, cô ấy viết thêm trên twitter: "Sau Ba Lần Anh Ta Phản Bội Tôi," cô ấy viết, quay trở lại lời bài hát của ca khúc về tình yêu và sự phản bội. "SỰ THẬT VỀ JUDAS: ANH TA Ở MỌI NƠI, NGAY BÂY GIỜ. ĐỪNG DỪNG LẠI CHỪNG NÀO ANH ẤY LÀ CỦA BẠN" cô thêm vào.[16] Tại Vương quốc Anh, bài hát được phát chính thức trên đài phát thanh The Capital FM Network vào ngày 15 tháng 4 năm 2011 trong chương trình Home Runon.[10] Gaga nói về phiên bản rò rỉ ở tập 43 trong chương trình Transmission Gagavision và so sánh nó với hồn vía lìa khỏi xác, cô nói: "Một cái chết chậm chạp! Hãy đưa tôi ra khỏi sự đau đớn chết tiệt này đi, hãy vứt ngay cái thứ rác rưởi ấy đi. Họ đang đấm túi bụi vào ca khúc. Đầu tiên là vào cánh tay của ca khúc, rồi đến ruột gan...."[20]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc cho "Judas" được quay vào ngày 2-3 tháng 4 năm 2011.

Biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Lady Gaga sẽ trình diễn Judas trong cuối mùa giải thứ 10 của chương trình American Idol vào ngày 19 tháng 5.[21]

Danh sách ca khúc và định dạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lady Gaganhạc sĩ, nhà sản xuất và giọng hát
  • RedOne – nhạc sĩ, nhà sản xuất, chỉnh sửa giọng hát, sắp xếp giọng hát, sao lưu giọng hát, thu âm, kỹ thuật, thiết bị đo đạc và lập trình
  • Trevor muzzy – chỉnh sửa thanh nhạc, ghi âm, kỹ thuật, thiết bị đo đạc, lập trình và âm thanh pha trộn tại Henson Studios, Los Angeles
  • Dave Russell – bổ sung ghi âm
  • Gene Grimaldi – người quản lý tại Burbank, California

Những công đoạn sản xuất trên được lấy từ phần ghi chú nhỏ ở album Born This Way.[29]

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận và doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận và doanh số của "Judas"
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[66] 2× Bạch kim 140.000double-dagger
Áo (IFPI Áo)[67] Vàng 15.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[68] Kim cương 250.000double-dagger
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[69] Vàng 45.000double-dagger
Ý (FIMI)[70] Vàng 15.000*
Nhật Bản (RIAJ)[71]
Nhạc chuông toàn bài
Vàng 100.000*
Nhật Bản (RIAJ)[72]
Tải về PC
Vàng 100.000*
New Zealand (RMNZ)[73] Vàng 7.500*
Hàn Quốc 367,533[74]
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[62] Vàng 20.000*
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[75]
Từ 2015
Vàng 30.000double-dagger
Thụy Điển (GLF)[76] Bạch kim 20.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[77] Bạch kim 600.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[79] 2× Bạch kim 1,000,000[78]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Ngày Định dạng
Thế giới[19] 15 tháng 4 năm 2011 Tải kỹ thuật số
Hàn Quốc[80] 18 tháng 4, 2011
Hoa Kỳ[18] 26 tháng 4, 2011 Mainstream radio
Đức[81] 13 tháng 5, 2011 Đĩa đơn CD
Ba Lan[82]
Anh Quốc[83] 16 tháng 5, 2011
Hoa Kỳ[26] Tải kỹ thuật số – Phối lại
Australia[27]
Anh Quốc[84]
Ý[85] 17 tháng 5, 2011 Đĩa đơn CD
Đài Loan[86] 20 tháng 5, 2011
Hoa Kỳ[25] 24 tháng 5, 2011
Đức[87] 1 tháng 7, 2011 Đĩa đơn CD – Phối lại phần 2
  1. ^ Bài hát này hoàn toàn miễn phí chỉ dành cho người sử dụng iTunes Store của Mỹ nếu họ đã mua phiên bản của "Born This Way" trước ngày 29 tháng 5 năm 2011 và thông qua một mã số gửi trước ngày 2 tháng 6. Từ đó nó được chuyển ra từ iTunes Store.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Judas (Legal Title) – BMI Work #12598986”. Broadcast Music Incorporated, House of Gaga Publishing, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  2. ^ a b c d Sun, Eryn (ngày 5 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga in Love with Judas Iscariot? Upcoming Second Single Leaked”. The Christian Post. The Post Company. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
  3. ^ a b c Vena, Jocelyn (ngày 1 tháng 3 năm 2011). “Lady Gaga Producer Calls 'Judas' Playful With A 'Serious Message'. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
  4. ^ Van Meter, Jonathan (ngày 14 tháng 2 năm 2011). “Lady Gaga: Our Lady of Pop”. Vogue. Condé Nast Publications. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  5. ^ Perpetua, Matthew (ngày 15 tháng 2 năm 2011). “Lady Gaga Reveals Details About Her New Album to Ryan Seacrest”. Rolling Stone. Jann Wenner. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  6. ^ Vena, Jocelyn (ngày 14 tháng 2 năm 2011). “Lady Gaga's Next Single Will 'Shock,' RedOne Says”. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
  7. ^ Vena, Jocelyn (ngày 21 tháng 3 năm 2011). “Lady Gaga Wraps Up Born This Way, Plans Tour”. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2011.
  8. ^ Ritchie, Kevin (ngày 26 tháng 4 năm 2011). “Pop culture as religion: Lady Gaga explains the controversial biblical imagery in her upcoming music video "Judas". MSN. Microsoft. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2011.[liên kết hỏng]
  9. ^ a b c d “Listening to Lady Gaga's next single is an enjoyable experience”. Popjustice. ngày 6 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  10. ^ a b c d Vena, Jocelyn (ngày 15 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga Drops 'Judas' Early”. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  11. ^ a b Dinh, James (ngày 23 tháng 3 năm 2011). “Lady Gaga To Direct 'Judas' Video With Laurieann Gibson”. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2011.
  12. ^ Perpetua, Matthew (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Preview Six Songs From Lady Gaga's 'Born This Way'. Rolling Stone. Jann Wenner. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  13. ^ Martin, Dan (ngày 16 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga 'Judas' Review – The Song She Should've Come Back With”. NME. IPC Media. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  14. ^ Corner, Lewis (ngày 15 tháng 4 năm 2011). “Lady GaGa's 'Judas': What we know”. Digital Spy. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  15. ^ a b c d Vena, Jocelyn (ngày 13 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga Talks 'Judas' Single, Influence Of Alexander McQueen”. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  16. ^ a b Vena, Jocelyn (ngày 15 tháng 4 năm 2011). “Gaga's 'Judas': Fans Weigh In!”. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  17. ^ Lynch, Joseph Brannigan (ngày 6 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga confronts Christian anti-gay protester; announces release date of 'Judas' single”. Entertainment Weekly. Time Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
  18. ^ a b “Top 40/M Future Releases”. AllAccess.com. All Access Music Group. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
  19. ^ a b Lewis, Randy (ngày 15 tháng 4 năm 2011). “New Lady Gaga single 'Judas' released today”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  20. ^ Vena, Jocelyn (ngày 20 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga Calls 'Judas' Leak 'A Slow Death'. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2011.
  21. ^ Chau, Thomas (ngày 15 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga, 'Judas' -- New Song”. AOL Radio. AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  22. ^ “Judas - Single by Lady GaGa”. iTunes. ngày 15 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  23. ^ “Lady Gaga – Judas (2-Track)” (bằng tiếng Đức). Universal Music. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  24. ^ “Lady Gaga: Judas (CDS)”. HMV Group. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2011.
  25. ^ a b “Lady Gaga, Judas, CD Single”. Amazon.com. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2011.
  26. ^ a b “Judas: Lady Gaga: MP3 Downloads”. Amazon.com. ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2011.
  27. ^ a b “Judas (The Remixes, Pt. 1) – EP by Lady Gaga”. iTunes Store. ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  28. ^ “Judas (The Remixes, Pt. 2) – EP by Lady Gaga”. iTunes. ngày 31 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2011.
  29. ^ Germanotta, Stefanie (2011). Born This Way (CD liner notes) |format= cần |url= (trợ giúp). Manhattan, Newyork: Interscope Records. tr. 4. Đã bỏ qua tham số không rõ |albumlink= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |publisherid= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |artist= (gợi ý |others=) (trợ giúp)
  30. ^ a b “Australian-Charts – Lady Gaga – Judas”. Australian Recording Industry Association. Hung Medien. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
  31. ^ a b c d e f g “Ultratop – Lady Gaga – Judas” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  32. ^ “Brazil Hot 100 Airplay”. Billboard Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazil: Nielsen Business Media, Inc. 15: 81. tháng 5 năm 2012. ISSN 977-879605400-2 Kiểm tra giá trị |issn= (trợ giúp).
  33. ^ “Billboard Brasil Hot Pop & Popular”. Billboard Brasil (16): 78–79. 2011. ISSN 977-12176-20385482 Kiểm tra giá trị |issn= (trợ giúp). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |editora= (trợ giúp); Chú thích có các tham số trống không rõ: |autorlink=, |ultimo=, |coautores=, và |primeiro= (trợ giúp)
  34. ^ Tuch, Paul (ngày 29 tháng 4 năm 2011). “Adele Tops Album & Digital Songs Chart” (PDF). Nielsen SoundScan. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2011. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  35. ^ “ARC, Issue Date: ngày 20 tháng 6 năm 2011” (bằng tiếng Croatia). HRT. ngày 20 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
  36. ^ “RADIO TOP100 Oficiální – Lady Gaga – Judas”. International Federation of the Phonographic Industry. IFPIcr.cz. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2011.
  37. ^ “Nederlandse Top 40” (bằng tiếng Hà Lan). Radio 538. MegaCharts. ngày 7 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  38. ^ “Suomen virallinen lista – Artistit – Lady GaGa: Judas” (bằng tiếng Phần Lan). International Federation of the Phonographic Industry. YLE. ngày 20 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2011.
  39. ^ “Suche – Lady GaGa, Judas” (bằng tiếng Đức). Charts.de Media Control Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2011.
  40. ^ “Single (track) Top 10 lista” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. ngày 23 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2011.
  41. ^ “GFK Top 50 Singles: Week of ngày 21 tháng 4 năm 2011”. Irish Recorded Music Association. GFK Chart-track. ngày 21 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2011.
  42. ^ “Media Forest: Airplay chart”. mediaforest.biz. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.
  43. ^ “Top digital download FIMI – Nielsen Soundscan” (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. ngày 24 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2011.
  44. ^ “Japan Hot 100: Week Ending ngày 11 tháng 6 năm 2011”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 11 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2011.
  45. ^ “New Zealand Top 40 Singles: Chart 1769”. Recording Industry Association of New Zealand. ngày 18 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2011.
  46. ^ Шнур и Ко возглавили российский чарт
  47. ^ “Archive Chart – Scotland – ngày 28 tháng 5 năm 2011”. The Official Charts Company. ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2011.
  48. ^ “RADIO TOP100 Oficiální – Lady Gaga – Judas”. International Federation of the Phonographic Industry. IFPIcr.sk. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2011.
  49. ^ “Digital Comprehensive Chart: Overseas Week 17” (bằng tiếng Hàn). Gaon Chart. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2011.
  50. ^ “Top 50 Canciones Singles” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. ngày 18 tháng 4 năm 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
  51. ^ Press Release (ngày 24 tháng 4 năm 2011). “LMFAO Rock On & Adele regains nuumber one spot”. The Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
  52. ^ Trust, Gary (ngày 20 tháng 4 năm 2011). “Rihanna's 'S&M' Reigns on Hot 100, Lady Gaga's 'Judas' Debuts”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2011.
  53. ^ a b c Billboard – Lady Gaga – Judas”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  54. ^ “Chart Highlights: Dance, Alternative Songs & More”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 13 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2011.
  55. ^ “Jaaroverzichten 2011”. Ultratop (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  56. ^ “Rapports annuels 2011”. Ultratop (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  57. ^ “Billboard Year-end 2011: Canadian Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2011.
  58. ^ “ARC 2011 Edition” (bằng tiếng Croatia). HRT. ngày 10 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
  59. ^ “Classement des 100 premiers Singles Fusionnés par GfK Music 2011” (PDF) (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012. line feed character trong |tiêu đề= tại ký tự số 60 (trợ giúp)
  60. ^ “MAHASZ Rádiós TOP 100 2011” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  61. ^ “Billboard Year-end 2011: Japan Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2011.
  62. ^ a b “Top 50 Canciones 2011” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2012.
  63. ^ “Singlar Album – År 2011” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Swedish Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
  64. ^ “End of Year Charts: 2011” (PDF). UK Albums Chart. The Official Charts Company. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2012.
  65. ^ “Billboard Year-end 2011: Hot Dance Club Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2011.
  66. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2024 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  67. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Áo – Lady Gaga – Judas” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2024.
  68. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Lady Gaga – Judas” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2024.
  69. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Lady Gaga – Judas” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2024.
  70. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Lady Gaga – Judas” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Judas" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
  71. ^ レコード協会調べ 4月度有料音楽配信認定<略称:4月度認定> [Record Association report: April digital music download certifications] (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. 20 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2011.
  72. ^ レコード協会調べ 4月度有料音楽配信認定<略称:4月度認定> [Record Association report: April digital music download certifications] (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. 20 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2011.
  73. ^ “Latest Gold / Platinum Singles” (bằng tiếng Anh). Radioscope. ngày 21 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2011.
  74. ^ “South Korean Gaon Chart: Online download – 2011”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2017.
  75. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Tây Ban Nha – Lady Gaga – Judas”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2024.
  76. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2011” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
  77. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Lady Gaga – Judas” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2023.
  78. ^ Trust, Gary (10 tháng 2 năm 2019). “Ask Billboard: Lady Gaga's Career Sales & Streams; Ariana Grande Takes '7' to 1”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2019.
  79. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Lady Gaga – Judas” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2016.
  80. ^ “Lady Gaga – Judas Download” (bằng tiếng Hàn). Universal Music Korea. ngày 18 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2011.
  81. ^ “Lady Gaga: Judas: CD Single” (bằng tiếng Đức). Amazon.de. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
  82. ^ “Empik Muzyka: Judas” (bằng tiếng Ba Lan). Empik.co. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2011.
  83. ^ “Lady Gaga: Judas: UK CD Single”. HMV Group. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  84. ^ “Judas (The Remixes, Pt. 1) - EP by Lady GaGa”. iTunes. ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  85. ^ “Lady Gaga: Judas: Singolo” (bằng tiếng Ý). Internet Book Shop. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  86. ^ “Taiwan CD single release: Lady Gaga: Judas” (bằng tiếng Trung). Universal Music Taiwan. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  87. ^ “Judas: The Remixes Part II German release” (bằng tiếng Đức). Lady Gaga's Official German Website. ngày 1 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011.