Bước tới nội dung

Joanne (album)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Joanne
Album phòng thu của Lady Gaga
Phát hành21 tháng 10 năm 2016 (2016-10-21)
Thu âm2015–2016
Thể loại
Thời lượng39:05
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Lady Gaga
Cheek to Cheek
(2014)
Joanne
(2016)
A Star Is Born
(2018)
Đĩa đơn từ Joanne
  1. "Perfect Illusion"
    Phát hành: 9 tháng 9 năm 2016
  2. "Million Reasons"
    Phát hành: 8 tháng 11 năm 2016
  3. "Joanne"
    Phát hành: 22 tháng 12 năm 2017[1]

Joanne là album phòng thu thứ năm của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Lady Gaga, phát hành ngày 21 tháng 10 năm 2016 bởi Streamline và Interscope Records như là sản phẩm âm nhạc tiếp theo của Gaga sau Artpop (2013) và Cheek to Cheek (2014). Để thực hiện album, Gaga đã hợp tác với một số nhà sản xuất âm nhạc, bao gồm Mark Ronson, Jeff Bhasker, BloodPopRedOne, và tham gia đồng sản xuất ở phần lớn những bản thu âm. Về mặt âm nhạc, Joanne thể hiện một phong cách âm nhạc "trần trụi" với soft rockdance-pop nhằm nhấn mạnh khả năng thanh nhạc của nữ ca sĩ, một sự khác biệt lớn so với Artpop. Mặt khác, phần ca từ của nó tập trung vào chủ đề gia đình và những cảm xúc của cuộc sống, đặc biệt là sự ra đi của người chị gái của cha cô, Joanne Stefani Germanotta, có ảnh hưởng sâu sắc đến album.

Joanne nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, và lọt vào danh sách những album hay nhất năm của một vài tổ chức âm nhạc. Nó ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 201,000 bản đơn vị album tương đương, trở thành album quán quân thứ tư của Gaga tại Hoa Kỳ. Trên thị trường quốc tế, album đứng đầu các bảng xếp hạng ở Argentina, Brazil, Mexico, Đài Loan và bảng xếp hạng quốc tế của Nhật Bản và Hàn Quốc, trong khi lọt vào top 10 tại hơn 15 thị trường khác. Hai đĩa đơn thương mại và một đĩa đơn quảng bá đã được phát hành từ Joanne. Đĩa đơn đầu tiên, "Perfect Illusion", đạt vị trí số một tại Pháp và Tây Ban Nha, cũng như lọt vào top 20 tại hơn 10 quốc gia như Úc, Vương quốc Anh, và Hoa Kỳ. Nó được tiếp nối bởi "Million Reasons" đã lọt vào top 40 tại hầu hết những thị trường nó xuất hiện, bao gồm vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.

Tổng quan

[sửa | sửa mã nguồn]
Gaga trong một diện mạo mới sau thời kỳ Artpop.

Album phòng thu thứ ba của Gaga, Artpop được phát hành vào tháng 11 năm 2013, và nhận được những phản ứng trái chiều từ giới chuyên môn.[2] Nó ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200, và đã bán được 2.5 triệu bản tính đến tháng 7 năm 2014.[3][4] Trong khoảng thời gian này, Gaga chia tay người quản lý lâu năm Troy Carter vào cuối năm 2013,[5] và đến tháng 6 năm 2014, cô và người quản lý mới Bobby Campbell đã quyết định gia nhập Artist Nation, một bộ phận quản lý nghệ sĩ của Live Nation Entertainment.[6] Đối diện với những vấn đề xung quanh cuộc sống cá nhân của mình, Gaga thú nhận sự chán nản về bản thân và tài năng của mình, và từng có quyết định từ bỏ âm nhạc hoàn toàn.[7] Những phản ứng trái chiều đối với Artpop đã dẫn đến một sự thay đổi lớn về mặt hình ảnh của nữ ca sĩ. Với diện mạo có phần nhẹ nhàng hơn trước truyền thông, Gaga đã nhấn mạnh sức mạnh trong giọng hát của cô. Một màn trình diễn tri ân bộ phim The Sound of Music tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87, nơi cô hát một liên khúc các bài hát từ bộ phim, đã được giới phê bình khen ngợi.[6][8] Gaga và Tony Bennett cũng phát hành Cheek to Cheek, một album song ca mang âm hưởng jazz, vào tháng 9 năm 2014 và nhận được những đánh giá thuận lợi.[9] Nó ra mắt trên đỉnh bảng xếp hạng Billboard 200, trở thành album quán quân thứ 3 liên tiếp của Gaga tại Hoa Kỳ,[10] và giành một giải Grammy cho Album giọng Pop truyền thống xuất sắc nhất.[11]

Ngoài ra, Gaga còn tham gia thủ vai chính trong American Horror Story: Hotel (2015–2016) thuộc mùa thứ năm của bộ phim truyền hình Mỹ American Horror Story, và chiến thắng một giải Quả cầu vàng ở hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc nhất - Phim ngắn tập hoặc Truyền hình.[12][13]. Trong màn phát biểu nhận giải của mình, nữ ca sĩ khẳng định rằng cô sẽ phát hành album phòng thu thứ năm của cô vào cuối năm 2016.[14][15] Trong suốt phần lớn của năm 2015 và 2016, Gaga tiết lộ quá trình thực hiện và ghi âm album trên các tài khoản mạng xã hội của mình. Cô đã hợp tác với nhà sản xuất lâu năm RedOne, cũng như những cộng tác viên mới như Giorgio Moroder, Mark RonsonNile Rodgers.[16]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Diamond Heart"3:30
2."A-Yo"
  • Ronson
  • BloodPop
  • Gaga
3:28
3."Joanne"
  • Germanotta
  • Ronson
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:17
4."John Wayne"
  • Germanotta
  • Ronson
  • Tucker
  • Homme
  • Ronson
  • BloodPop
  • Gaga
2:54
5."Dancin' In Circles"
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:27
6."Perfect Illusion"
  • Ronson
  • Parker
  • Gaga
  • BloodPop
3:02
7."Millions Reason"
  • Germanotta
  • Lindsey
  • Ronson
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:25
8."Sinner's Prayer"
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:43
9."Come To Mama"
  • Ronson
  • Haynie
  • Gaga
  • BloodPop
4:15
10."Hey Girl" (hợp tác với Florence Welch)
  • Germanotta
  • Welch
  • Ronson
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
4:15
11."Angel Down"
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:49
Tổng thời lượng:39:05
Track bổ sung phiên bản sang trọng[17]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
12."Grigio Girls"
  • Germanotta
  • Lindsey
  • Ronson
  • Tucker
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:00
13."Just Another Day"Germanotta
  • Ronson
  • Gaga
2:58
14."Angel Down" (bản thu nháp)
  • Germanotta
  • Khayat
2:20
Tổng thời lượng:47:23
Track bổ sung phiên bản CD tại Nhật[18]
STTNhan đềThời lượng
15."Million Reasons" (bản thu nháp)3:23
Tổng thời lượng:50:46

Chú thích

  • ^[a] – nghĩa là đồng sản xuất

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Canada (Music Canada)[67] Vàng 40.000^
México (AMPROFON)[68] Vàng 30.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[70] Vàng 90,624[69]
Hoa Kỳ (RIAA)[72] Bạch kim 515,000[71]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Aldi, Giorgia (ngày 19 tháng 12 năm 2017). “Joanne - Lady Gaga (Radio Date: 22-12-2017)”. Earone (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  2. ^ Lipshutz, Jason (ngày 4 tháng 8 năm 2015). “The Do's and Don'ts of Lady Gaga's Next Album”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2016.
  3. ^ Caulfield, Keith (ngày 20 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga Scores Second No. 1 Album With 'ARTPOP'. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
  4. ^ Siegel, Ben (ngày 7 tháng 7 năm 2014). “Lady Gaga dazzles fans with fun, solid show”. The Buffalo News. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  5. ^ Rivera, Zayda (ngày 5 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga, longtime manager Troy Carter split over 'creative differences'. Daily News. New York. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013.
  6. ^ a b Hampp, Andrew (ngày 8 tháng 3 năm 2015). “Inside Lady Gaga's Latest Reinvention (It's All Part of a Long-Term Plan)”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2016.
  7. ^ Stubbs, Dan (ngày 21 tháng 10 năm 2016). “Lady Gaga – The Full NME Cover Interview”. NME. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ Fallon, Patrick (ngày 22 tháng 2 năm 2015). “Oscars 2015: The Show”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  9. ^ “Cheek to Cheek – Tony Bennett and Lady Gaga”. Metacritic. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2014.
  10. ^ Caulfield, Keith (ngày 1 tháng 10 năm 2014). “Tony Bennett & Lady Gaga's 'Cheek To Cheek' Debuts at No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2014.
  11. ^ Rosen, Christopher (ngày 8 tháng 2 năm 2015). “Grammy Winners List For 2015 Includes Beyoncé, 'Frozen' & Kendrick Lamar”. The Huffington Post. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2015.
  12. ^ Falcone, Dana Rose (ngày 10 tháng 9 năm 2015). “Lady Gaga joins American Horror Story Season 5”. CNN. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  13. ^ Franich, Darren (ngày 14 tháng 1 năm 2016). American Horror Story: Hotel finale recap: 'Be Our Guest'. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  14. ^ “Lady Gaga Hints at New Album Release in 2016”. Billboard. ngày 11 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2016.
  15. ^ Bell, Crystal (ngày 11 tháng 1 năm 2016). “Lady Gaga Confirms New Album in 2016, And A New Look”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2016.
  16. ^ Corner, Lewis (ngày 3 tháng 8 năm 2016). “Lady Gaga's new album: Release date, songs, credits, collaborations and everything else you need to know”. Digital Spy. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016.
  17. ^ “Joanne (Deluxe) by Lady Gaga on Apple Music”. iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2016.
  18. ^ “Joanne [Japan Bonus Track]”. CDJapan. Neowing. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2016.
  19. ^ “Los discos más vendidos”. Diario de Cultura. ngày 30 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
  20. ^ "Australiancharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2016.
  21. ^ "Austriancharts.at – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016.
  22. ^ "Ultratop.be – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  23. ^ "Ultratop.be – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  24. ^ “Brazil Albums: Week of ngày 26 tháng 11 năm 2016”. Billboard for ABPD. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2016.
  25. ^ "Lady Gaga Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
  26. ^ "Top Stranih [Top Foreign]" (bằng tiếng Croatia). Top Foreign Albums. Hrvatska diskografska udruga. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2016.
  27. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 201643 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
  28. ^ "Danishcharts.dk – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2016.
  29. ^ "Dutchcharts.nl – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  30. ^ "Lady Gaga: Joanne" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2016.
  31. ^ "Lescharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2016.
  32. ^ "Offiziellecharts.de – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  33. ^ “Official IFPI Charts: Top-75 Albums Sales Chart Week: 43/2016”. IFPI Greece. ngày 6 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2016.
  34. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2016. 43. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2016.
  35. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 43, 2016". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  36. ^ "Italiancharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016.
  37. ^ 31 tháng 10 năm 2016/ "Oricon Top 50 Albums: ngày 31 tháng 10 năm 2016" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  38. ^ “Oricon Top 50 International Albums: 2016-10-31” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  39. ^ "South Korea Gaon Album Chart". Trên trang này, chọn "2016.10.16~2016.10.22" để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  40. ^ "South Korea Gaon International Album Chart". Trên trang này, chọn "2016.10.16~2016.10.22", sau đó "국외", để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  41. ^ “Top Album – Semanal (del 21 de Octubre al 27 de Octubre)” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016.
  42. ^ "Charts.nz – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  43. ^ "Norwegiancharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2016.
  44. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016.
  45. ^ "Portuguesecharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2016.
  46. ^ 28 tháng 10 năm 2016/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2016.
  47. ^ "Spanishcharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016.
  48. ^ "Swedishcharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2016.
  49. ^ "Swisscharts.com – Lady Gaga – Joanne" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2016.
  50. ^ “Weekly Top 20 – Five Music Chart 2016/10/21 to 2016/10/27” (bằng tiếng Trung). Five Music. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  51. ^ "Lady Gaga | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2016.
  52. ^ "Lady Gaga Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
  53. ^ "Lady Gaga Chart History (Top Tastemaker Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
  54. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2016”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2017.
  55. ^ “Jaaroverzichten 2016 Albums” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  56. ^ “Rapports Annuels 2016 Albums” (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  57. ^ “Classement des 200 meilleures ventes d'albums de 2016” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2017.
  58. ^ “Top of the Music FIMI-Gfk 2016” (bằng tiếng Ý). FIMI. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  59. ^ “2016년 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2017.
  60. ^ “Los más vendidos 2016” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  61. ^ “Top 100 Albumes 2016” (bằng tiếng Tây Ban Nha). PROMUSICAE. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2017.
  62. ^ “Schweizer Jahreshitparade Alben 2016 – hitparade.ch”. Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2017.
  63. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2016”. Official Charts Company. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2016.
  64. ^ “2016 Top Billboard 200 Albums”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  65. ^ “2016 Top Digital Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  66. ^ “2016 Top Album Sales”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  67. ^ “Chứng nhận album Canada – Lady Gaga – Joanne” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2016.
  68. ^ “Certificados Musicales Amprofon – 1 Disco de oro” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON Facebook. ngày 9 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2017.
  69. ^ Legrand, Emmanuel (ngày 6 tháng 2 năm 2017). “Bowled over: Lady Gaga triumphs as Super Bowl goes sync crazy”. Music Week. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2017.
  70. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Lady Gaga – Joanne” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017. Chọn album trong phần Format. Chọn Vàng' ở phần Certification. Nhập Joanne vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  71. ^ Lipshutz, Jason (ngày 19 tháng 4 năm 2017). “Is Lady Gaga's 'The Cure' a Bold New Step, or a Necessary Course Correction?”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2017.
  72. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Lady Gaga – Joanne” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2017.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]