Bước tới nội dung

Sân bay Biên Hòa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sân bay Biên Hòa
  
Một phần của Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam (VPAF)
Không lực Việt Nam Cộng hòa (RVNAF)
Không quân Hoa Kỳ (USAF)
Sân bay Biên Hòa vào tháng 8 năm 1968
Sân bay Biên Hòa trên bản đồ Việt Nam
Sân bay Biên Hòa
Sân bay Biên Hòa
Vị trí của sân bay Biên Hòa, Việt Nam
Tọa độ10°58′37″B 106°49′6″Đ / 10,97694°B 106,81833°Đ / 10.97694; 106.81833
LoạiCăn cứ không quân
Thông tin địa điểm
Kiểm soát bởi Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam

 Không lực Việt Nam Cộng hòa

  Không quân Hoa Kỳ
Điều kiệnChiếm giữ vào năm 1975 bởi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, được sử dụng làm sân bay quân sự
Lịch sử địa điểm
Xây dựng1955
Sử dụng1955 - nay
Trận đánh/chiến tranh
Chiến tranh Việt Nam
Thông tin sân bay
Mã IATA
VBH
Mã ICAO
VVBH
Thông tin chung
Vị tríBiên Hòa
Độ cao79 ft / 24 m
Đường băng
Hướng Chiều dài Bề mặt
m ft
09L/27R 3.048 10.000 Nhựa đường
09R/27L 3.048 10.000 Nhựa đường

Sân bay Biên Hòa hay Căn cứ không quân Biên Hòa là một sân bay quân sự nằm ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km. Sân bay Biên Hòa từng là căn cứ không quân của Không lực Việt Nam Cộng HòaKhông lực Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, sân bay Biên Hòa được Không quân Nhân dân Việt Nam tiếp quản sử dụng.

Đơn vị đóng quân: Trung đoàn Không quân tiêm kích 935 (Đoàn Biên Hòa) trực thuộc Sư đoàn Không quân 370 với biên chế trang bị sẵn sàng chiến đấu: tiêm kích đa năng Su-30MK2V (đóng vai trò chủ lực), một số cường kích A-37, tiêm kích hạng nhẹ F-5 (không còn hoạt động và được niêm phong)

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Biên Hòa tọa lạc tại một khu đất bằng phẳng, yên bình ở một vùng nông thôn cách Sài Gòn 25 km (16 mi) về phía Bắc. Không quân Pháp đã thành lập sân bay quân sự, Base aérienne tactique 192, được hoạt động tích cực trong suốt Chiến tranh Đông Dương.

Vào tháng 2 năm 1953, Không quân Pháp đã thành lập cơ sở tại Biên Hòa để đại tu các máy bay F8F Bearcat.[1]:69 Vào ngày 15 tháng 4, các phi công thuộc Không quân Hoa Kỳ đến Sài Gòn để giúp Pháp thiết lập cơ sở đại tu máy bay F8F và được điều động đến Biên Hòa.[1]:70

Vào ngày 1 tháng 6 năm 1955, Căn cứ Không quân Biên Hòa trở thành căn cứ hỗ trợ của RVNAF khi Pháp giải tán kho hàng chính tại Hà Nội. Tại thời điểm đó căn cứ chỉ có một đường băng dài 1.737 mét (1,737 km) rộng 46 mét (0,046 km).[2]

Vào tháng 12 năm 1960, Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự Việt Nam (MAAG) của Hoa Kỳ đã yêu cầu Hải quân Hoa Kỳ, với tư cách đại diện Bộ Quốc phòng tại Đông Nam Á, lên kế hoạch và xây dựng một số sân bay phản lực tại miền Nam Việt Nam, bao gồm Biên Hòa.[3] Vào tháng 12 năm 1961, công ty xây dựng Hoa Kỳ RMK-BRJ được chỉ đạo bởi Cán bộ phụ trách xây dựng của Hải lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu xây dựng đường băng mới, một trong nhiều dự án được xây dựng bởi RMK-BRJ tại Căn cứ không quân Biên Hòa mất hơn khoảng 10 năm.[3]:30–32

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Williams, Kenneth (2019). The U.S. Air Force in Southeast Asia and the Vietnam War A Narrative Chronology Volume I: The Early Years through 1959 (PDF). Air Force History and Museums Program.Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  2. ^ Futrell, Robert (1981). The United States Air Force in Southeast Asia: The Advisory Years to 1965. Office of Air Force History. tr. 81. ISBN 9789998843523. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2022.
  3. ^ a b Tregaskis, Richard (1975). Southeast Asia: Building the Bases; the History of Construction in Southeast Asia. Superintendent of Documents, U.S. Government Printing Office. tr. 22. OCLC 952642951.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]