Stan Lee
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Stan Lee | |
---|---|
Lee năm 2014 | |
Sinh | Stanley Martin Lieber 28 tháng 12, 1922 Thành phố New York, New York, Hoa Kỳ |
Mất | 12 tháng 11, 2018 Los Angeles, California, Hoa Kỳ | (95 tuổi)
Quốc tịch | Mỹ |
Lĩnh vực | Nhà văn, nhà sản xuất, chủ bút, tổng biên tập, diễn viên, dẫn chương trình, họa sĩ |
Tác phẩm nổi bật | Daredevil Fantastic Four Hulk Iron Man Spider-Man Thor X-Men |
Cộng tác viên | |
Giải thưởng | |
Phối ngẫu | |
Con cái | 2 |
Chữ ký | |
Website | therealstanlee |
Stan Lee[1] (28 tháng 12 năm 1922 - 12 tháng 11 năm 2018)[2] tên khai sinh Stanley Martin Lieber là một nhà văn, họa sĩ, chủ bút,[3] chỉ đạo sản xuất, người dẫn chương trình, diễn viên, chủ tịch hội đồng quản trị người Mỹ [4] của Marvel Comics.
Ông đã từng cộng tác với rất nhiều họa sĩ, đáng chú ý phải kể đến Jack Kirby và Steve Ditko, ông còn là người đồng sáng tạo ra các nhân vật truyện tranh nổi tiếng như Người Nhện, Hulk, nhóm Fantastic Four, Người Sắt, Thor, X-men và rất rất nhiều nhân vật giả tưởng khác, tạo ra một vũ trụ riêng biệt của các siêu anh hùng trong truyện tranh với một hệ thống nhân vật phong phú và phức tạp. Lee đã góp công rất lớn trong việc đưa Marvel Comics từ một công ty nhỏ trở thành một tập đoàn đa phương tiện khổng lồ. Sau khi nghỉ hưu vào năm 1990, ông trở thành nhân vật đại chúng của công ty, và xuất hiện với tư cách là diễn viên khách mời trong hầu hết các bộ phim điện ảnh dựa theo những nhân vật truyện tranh của Marvel.
Với những đóng góp của mình, Lee đã vinh dự được nhận giải thưởng Will Eisner Award vào năm 1994 và Harvey Award vào năm 1995. Ông cũng được trao Huân chương nghệ thuật Quốc gia (National Medal of Arts) vào năm 2005. Ngày 12/11/2018 ông đã qua đời ở tuổi 95 vì sức khoẻ của ông trong nhiều tháng trước đó đã bị giảm sút do chứng viêm phổi và giảm thị lực.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Stanley Martin Lieber sinh ra tại thành phố New York vào ngày 28/12/1922[5] trong 1 gia đình gốc Do Thái nhập cư từ Romania, là con trai của Jack Lieber và Celia.[6][7] Bố ông là thợ may quần áo, công việc không được ổn định cho lắm sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới[6], và gia đình phải chuyển lên sống tại khu Washington Avenue[8], Washington Heights, Manhattan. Năm Lee gần 9 tuổi, mẹ ông sinh em trai là Larry Lieber. Ông nói vào năm 2006 rằng khi là 1 đứa trẻ ông đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi phim ảnh và sách truyện, đặc biệt là diễn viên Errol Flynn với những vai diễn anh hùng.[9]
Lee theo học tại trường trung học DeWitt Clinton.[10] Thời trẻ, ông rất thích viết và ông có ước mơ một ngày nào đó được viết ra những tác phẩm tuyệt vời.[11] Ông từng làm thêm những công việc là viết cáo phó cho một tờ báo; giao bánh sandwich; làm việc cho nhà máy may; chỉ chỗ ngồi tại nhà hát kịch... Ông tốt nghiệp trung học khá sớm, vào năm 16 tuổi.[12]
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Ban đầu
[sửa | sửa mã nguồn]Với sự giúp đỡ của người chú Robbie Solomon,[13] Stan Lee được nhận làm phụ tá tại tờ Timely Comics - 1 chi nhánh trong công ty Atlas Comics của Martin Goodman - công ty vào năm 1960 trở thành Marvel Comics. Là cháu của vợ Goodman[14], ông được chính thức nhận vào tờ Timely bởi chủ bút Joe Simon.
Công việc của ông lúc đầu khá nhàm chán. "Hồi đó các họa sĩ trước khi vẽ phải bơm mực, tôi có nhiệm vụ giữ cho lọ mực không bị cạn" - Lee hồi tưởng lại. "Tôi còn phải đi lấy đồ ăn cho mọi người; đóng dấu biên tập; tẩy những nét bút chì trên truyện tranh giúp họ". Đi theo khát vọng thời thơ ấu được trở thành 1 nhà văn, Stanley Lieber đã sáng tác nên tác phẩm truyện tranh đầu tiên trong sự nghiệp: "Captain America- Cuộc trả thù những kẻ phản bội" trong ấn phẩm truyện Captain America Comics #3 (5/1941) và sử dụng bút danh "Stan Lee" - cái tên mà vài năm sau đã được chọn để trở thành tên chính thức của ông. Trong tập truyện này chiếc khiên của Captain America đã lần đầu tiên được xuất hiện, và từ đó nó dần dần trở thành biểu tượng của siêu anh hùng này.
Lee cũng đã thoát ra khỏi việc là chân sai vặt để trở thành 1 họa sĩ truyện tranh thực thụ với truyện "'Headline' Hunter, Foreign Correspondent". Siêu anh hùng đầu tiên mà ông sáng tạo ra là Destroyer trong Mystic Comics #6 (8/1941), 2 nhân vật nữa ông cũng tạo ra trong khoảng thời gian này là Jack Frost trong USA Comics #1 (8/1941) và Father Time trong Captain America Comics #6 (8/1941).
Sau khi Simon cùng Jack Kirby rời công ty, Goodman đã đưa Lee lên làm chủ bút tạm thời. Lee đã rất cố gắng và được giữ vị trí chủ bút chính thức, đồng thời kiêm luôn chức vụ phụ trách về mỹ thuật.
Ông lấy Joan Clayton Boocock vào năm 1947, và đến năm 1949 họ chuyển đến 1 ngôi nhà 2 tầng, 3 phòng ngủ tại 1084 West Broadway, New York, sống ở đó đến năm 1952. Trong khoảng thời gian này, họ có với nhau 1 cô con gái tên là Joan Celia "J.C." Lee (1950) và 1 người con nữa (1953) nhưng đáng tiếc người con thứ 2 bị chết yểu 3 ngày sau khi sinh. Lee sau đó mua một ngôi nhà ở 226 Richards Lane, New York, và sống ở đó từ 1953 đến 1980.
Giữa những năm 1950, Lee viết rất nhiều truyện đủ thể loại như hành động, lãng mạn, miền Tây, khoa học viễn tưởng, kinh dị... Trong thời gian này, ông thành lập nhóm Dan DeCarlo để cung cấp các thông tin cho tờ báo My Friend Irma. Cuối thập kỉ, Lee cảm thấy mất cảm hứng làm công việc này và có ý định từ bỏ sự nghiệp.
Cuộc Cách mạng Marvel
[sửa | sửa mã nguồn]Trong những năm cuối của thập kỉ 50, biên tập của DC Comics là Julius Schwartz đã làm hồi sinh lại những hình tượng những siêu anh hùng và đạt được những thành công lớn với phiên bản truyện về nhân vật Flash, sau đó là đến cả nhóm Liên Minh Công Lý của Mĩ (Justice League of America). Để đáp trả, Martin Goodman đã yêu cầu Lee tạo ra 1 nhóm siêu anh hùng mới. Vợ Lee khuyên rằng ông nên thử sáng tạo theo cách mà ông muốn vì lúc này ông đã đang muốn từ bỏ sự nghiệp và không có gì để mất cả.
Lee đã làm theo lời khuyên đó của vợ, tạo nên những nhân vật siêu anh hùng không quá hoàn mỹ như trước, giống con người hơn, thay đổi quan niệm rằng siêu anh hùng là dành cho lứa tuổi trẻ em. Trước đó, những siêu anh hùng trong truyện tranh đều là những nhân vật hoàn hảo, không có khuyết điểm nào. Lee đã hình thành 1 hệ thống những nhân vật siêu anh hùng phức tạp như con người, họ cũng có thể đôi khi xấu tính, hay u sầu, tự cao tự đại, họ phải vật lộn với chính bản thân mình, lo lắng cho những hóa đơn hàng tháng, gây ấn tượng với các cô bạn gái, thấy chán nản hoặc thậm chí bị ốm đau, bênh tật.
Nhóm siêu anh hùng đầu tiên mà đội ngũ của Lee và họa sĩ Jack Kirby tạo ra là Fantastic Four. Sự thành công của nhóm đã khiến Lee và các cộng sự ở Marvel giới thiệu hàng loạt những tập truyện mới. Ông cùng Jack Kirby sáng tạo ra nhân vật Thor, Hulk, Iron Man, và nhóm X-Men; cùng Bill Everett tạo ra Daredevil; cùng Steve Ditko tạo ra Doctor Strange và nhân vật thành công nhất trong lịch sử của hãng Marvel: Người Nhện. tất cả họ đều sống trong 1 vũ trụ của riêng Marvel. Lee và Kirby đã tập hợp nhiều trong số những nhân vật họ mới tạo ra vào 1 nhóm mang tên The Avengers và làm sống lại những nhân vật có từ thập kỉ 40 như Captain America. Sub-Mariner, Ka-zar.
Năm 1972, Lee dừng việc viết truyện hàng tháng để nhận chức chủ bút. Ấn bản The Amazing Spider-Man cuối cùng của ông là số #110 (7/972)[15], còn ấn bản cuối cùng của Fantastic Four là số #125 (9/1972).[16]
Giai đoạn sau của sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Trong những năm tiếp theo, Lee trở thành đầu tàu và là gương mặt đại diện của Marvel Comics. Ông ấy xuất hiện tại các sự kiện truyện tranh khắp nước Mỹ, phát biểu tại các trường đại học trong các buổi tọa đàm. Lee và John Romita Sr. chính thức cho ra mắt tờ báo truyện tranh về Người nhện vào ngày 3 tháng 1 năm 1977.[17] Tác phẩm cuối cùng mà Lee cộng tác cùng với Jack Kirby là The Silver Surfer: The Ultimate Cosmic Experience, được xuất bản vào năm 1978 như là một phần của tuyển tập sách Marvel Fireside Books và tác phẩm này được nhiều người cho rằng chính là cuốn tiểu thuyết truyện tranh đầu tiên của Marvel.[18] Lee và John Buscema cũng đã cùng nhau tạo nên ấn bản đầu tiên về nhân vật The Savage She-Hulk (5/1980), kể về một người em gái họ của Hulk[19] và sáng tác một câu chuyện về Silver Surfer có tên là Epic Illustrated #1 (Mùa xuân năm 1980).[20] Ông chuyển đến sống tại California vào năm 1981 để phát triển mảng phim truyền hình và điện ảnh của Marvel. Ông chính là người đã xuất hiện với vai trò cameo trong rất nhiều các bộ phim chuyển thể từ tác phẩm của Marvel. Ông cũng thường hay trở lại với truyện tranh bằng việc viết tiếp rất nhiều các dự án về Silver Surfer bao gồm một tập truyện one-shot vào năm 1982 được vẽ bởi John Byrne[21], một tác phẩm tiểu thuyết truyện tranh có tên là Ngày phán xét, vẽ bởi John Buscema,[22] cùng với đó là series Parable, vẽ bởi họa sĩ người Pháp Mœbius,[23] và cuối cùng là tác phẩm The Enslavers, kết hợp với Keith Pollard.[24] Lee đã được chọn làm chủ tịch của công ty trong một thời gian ngắn, tuy nhiên ông nhanh chóng từ bỏ vị trí này để làm chủ bút vì cho rằng làm chủ tịch có quá nhiều con số và phân tích tài chính, ông không muốn làm một việc mà ông không yêu thích như vậy.[25]
Sách tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Lee, Stan; Mair, George (2002). Excelsior!: The Amazing Life of Stan Lee. Simon & Schuster. ISBN 0743228006.
- Lee, Stan (1974). Origins of Marvel Comics. (Marvel Entertainment Group 1997 reissue). Simon and Schuster. ISBN 0785105514.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- McLaughlin, Jeff, ed. Stan Lee: Conversations (University Press of Mississippi, 2007), ISBN 978-1-57806-985-9
- Ro, Ronin. Tales to Astonish: Jack Kirby, Stan Lee, and the American Comic Book Revolution (Bloomsbury USA, 2005 reissue) ISBN 1-58234-566-X
- Raphael, Jordan, and Spurgeon, Tom. Stan Lee and the Rise and Fall of the American Comic Book (Chicago Review Press, 2003) ISBN 1-55652-506-0
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Lee & Mair 2002, p. 27
- ^ Kandell, Jonathan; Webster, Andy (12 tháng 11 năm 2018). “Stan Lee Is Dead at 95; Superhero of Marvel Comics + Video (05:26)”. The New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2018.
- ^ Gilroy, Dan (17 tháng 9 năm 1986). “Marvel Now a $100 Million Hulk: Marvel Divisions and Top Execs”. Variety. tr. 81. Bản gốc (jpeg) lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2018. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ “Marvel Entertainment Group Inc. Form 10-K/A”. Securities and Exchange Commission. ngày 15 tháng 5 năm 1997. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017.
- ^ Miller, John Jackson (ngày 10 tháng 6 năm 2005). “Comics Industry Birthdays”. Comics Buyer's Guide. Iola, Wisconsin. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2010.
- ^ a b Lee & Mair 2002, p. 5
- ^ The Celebrity Who's Who – World Almanac. Google Books. tháng 9 năm 1986. tr. 213. ISBN 978-0-345-33990-4. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2013.
- ^ Lewine, Edward (ngày 4 tháng 9 năm 2007). “Sketching Out His Past: Image 1”. The New York Times Key Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ Lewine. “Image 2”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ Lee and Mair, p. 17
- ^ Sedlmeier, Cory (biên tập). Marvel Masterworks: The Incredible Hulk Volume 2. Marvel Comics. tr. 244. ISBN 978-0-7851-5883-7.
- ^ “Biography”. StanLeeWeb.com (fan site by minority shareholders of POW! Entertainment). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
- ^ “I Let People Do Their Jobs!': A Conversation with Vince Fago—Artist, writer, and Third Editor-in-Chief of Timely/Marvel Comics”. Alter Ego. 3 (11). Raleigh, North Carolina: TwoMorrows Publishing. tháng 11 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2018. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp) - ^ Lee, Mair, p. 22
- ^ Manning "1970s" in Gilbert (2012), p. 61: "Stan Lee had returned to The Amazing Spider-Man for a handful of issues after leaving following issue #100 (September 1971). With issue #110. Lee once again departed the title into which he had infused so much of his own personality over his near 10-year stint as regular writer."
- ^ Sanderson "1970s" in Gilbert (2008), p. 157
- ^ Saffel, "An Adventure Each Day", p. 116: "On Monday ngày 3 tháng 1 năm 1977, The Amazing Spider-Man comic strip made its debut in newspapers nationwide, reuniting writer Stan Lee and artist John Romita."
- ^ Sanderson "1970s" in Gilbert (2008), p. 187: "[In 1978], Simon & Schuster's Fireside Books published a paperback book titled The Silver Surfer by Stan Lee and Jack Kirby...This book was later recognized as Marvel's first true graphic novel."
- ^ DeFalco "1980s" in Gilbert (2008), p. 197: "With the help of artist John Buscema, [Stan] Lee created Jennifer Walters, the cousin of Bruce Banner."
- ^ Bản mẫu:Grand Comics Database search
- ^ Catron, Michael (tháng 8 năm 1981). “Silver Surfer Special Set”. Amazing Heroes. Seattle, Washington: Fantagraphics Books (3): 17.
- ^ Lee, Stan; Buscema, John (1988). Silver Surfer: Judgement Day. Marvel Comics. tr. 64. ISBN 978-0-87135-427-3.
- ^ Lofficier, Jean-Marc (tháng 12 năm 1988). “Moebius”. Comics Interview (64). Fictioneer Books. tr. 24–37.
- ^ Lee, Stan; Pollard, Keith (1990). Silver Surfer: The Enslavers. Marvel Comics. tr. 64. ISBN 978-0-87135-617-8.
- ^ Lee, Mair [cần số trang]
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Bài viết này sử dụng liên kết ngoài có thể không tuân theo quy định hoặc nguyên tắc của Wikipedia. (November 2010) |
- POW! Entertainment Lưu trữ 2011-02-17 tại Wayback Machine (official site)
- “Biography”. StanLeeWeb.com (fan site by minority shareholders of POW! Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
- McCave, Joseph. "SDCC 2009: Stan Lee Talks 'Time Jumper'!" FearNet.com, ngày 27 tháng 7 năm 2009
- Framingham, Mass. "Myth and the Hero's Journey: Big Screen Blockbusters – Star Wars, Spider-Man Tell Timeless Tales", Daily News (ngày 5 tháng 5 năm 2002), by Chris Bergeron
- Archive of "Fast Chat: Stan Lee". Newsday, ngày 1 tháng 4 năm 2007. Online version ngày 31 tháng 3 năm 2007.
- Stan Lee at ComiCon in Seattle
- Stan Lee at the Unofficial Handbook of Marvel Comics Creators
- Stan Lee trên Comic Book DB
- Stan Lee tại Internet Speculative Fiction Database
- Stan Lee trên IMDb
- Stan Lee trên Twitter
Audio/video
- Audio of Merry Marvel Marching Society record tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2005), including voice of Stan Lee
- “Stan Lee”. (video interviews) WebOfStories.com. 30 tháng 11 năm 2024.
- Comic Geek Speak: Episode 83 – Stan Lee interview podcast, ngày 12 tháng 12 năm 2005
- Mahalo Daily with Veronica Belmont: "MD044 – Stan Lee Interview" tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2008), ngày 28 tháng 1 năm 2008
- Stan Lee receives 1st New York comics legend award Lưu trữ 2012-03-10 tại Wayback Machine ngày 17 tháng 4 năm 2008
- "Authors@Google: Stan Lee" trên YouTube, Authors@Google, "AtGoogleTalks", ngày 18 tháng 7 năm 2008. (Video podcast)
- Conan, Neal (ngày 27 tháng 10 năm 2010). “Stan Lee, Mastermind of the Marvel Universe”. Talk of the Nation. National Public Radio. (Radio broadcast)
- Mất năm 2018
- Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 20
- Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21
- Nam diễn viên điện ảnh Mỹ
- Nam diễn viên lồng tiếng Mỹ
- Quân nhân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
- Marvel Comics
- Người đoạt Huy chương Nghệ thuật Quốc gia
- Lính Lục quân Hoa Kỳ
- Sinh năm 1922
- Tử vong vì bệnh hệ hô hấp
- Nhà sản xuất phim Mỹ
- Nhà văn Mỹ thế kỷ 21
- Nhà văn Mỹ thế kỷ 20
- Người Mỹ gốc Do Thái