Bước tới nội dung

Matthew McConaughey

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Matthew McConnaughey)
Matthew McConaughey
McConaughey tại lễ trao giải Goldene Kamera, Berlin, 2014
SinhMatthew David McConaughey
4 tháng 11, 1969 (55 tuổi)
Uvalde, Texas, Hoa Kỳ
Trường lớpĐại học Texas tại Austin
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động1991 – nay
Phối ngẫu
Camila Alves (cưới 2012)
Con cái3

Matthew David McConaughey (/məˈkɒnəh/;[1] sinh ngày 4 tháng 11 năm 1969) là một diễn viên người Mỹ. Anh giành được sự chú ý lần đầu tiên với vai diễn trong bộ phim hài Dazed and Confused (1993), sau đó liên tiếp xuất hiện trong nhiều bộ phim nổi tiếng khác, bao gồm Texas Chainsaw Massacre: The Next Generation (1994), và đột phá với vai diễn chính trong bộ phim tội phạm giật gân A Time to Kill (1996). McConaughey tiếp tục nghiệp diễn với các vai chính trong phim khoa học viễn tưởng Contact (1997), phim lịch sử Amistad (1997) của đạo diễn Steven Spielberg, phim hài EDtv (1999), phim chiến tranh U-571 (2000) và bộ phim kinh dị tâm lý Frailty (2001) của đạo diễn Bill Paxton.

Sang thập niên 2000, anh bắt đầu được biết đến nhiều hơn với một loạt vai diễn trong các bộ phim hài lãng mạn[2], bao gồm The Wedding Planner (2001), How to Lose a Guy in 10 Days (2003), Failure to Launch (2006), Fool's Gold (phim 2008)Ghosts of Girlfriends Past (2009), xây dựng anh thành một Biểu tượng gợi cảm. Từ năm 2010, Matthew thử sức mình với những vai diễn gai góc hơn trong các bộ phim Nhân danh công lý (2011), Bernie (2011), Killer Joe (2011), The Paperboy (2012), Mud (2012), Magic Mike (2012) và Sói Già Phố Wall (2013). Đặc biệt, với những nỗ lực khi thể hiện vai Ron Woodroof một chàng cao bồi bị AIDS trong bộ phim tiểu sử Dallas Buyers Club, Matthew lần đầu đoạt tượng vàng OscarQuả cầu vàng cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cùng nhiều đề cử và giải thưởng khác. Năm 2014, anh tham gia đóng vai chính trong series phim truyền hình hình sự True Detective của đài HBO.

Những năm đầu cuộc sống

[sửa | sửa mã nguồn]

McConaughey là em út trong một gia đình có 3 anh em tại Uvalde, Texas. Mẹ anh, bà Mary Kathleen "Kay"/"KMac" (née McCabe) gốc là người Trenton, New Jersey, đã từng là giáo viên dạy mẫu giáo và là một tác giả có sách được xuất bản.[3] Cha Matthew, ông James Donald "Jim" McConaughey[4], sở hữu một trạm xăng, vào năm 1953 đã được chọn làm cầu thủ tập sự (draft) cho đội bóng bầu dục Green Bay Packers.[5][6][7][8] Cha mẹ McConaughey đã ly hôn và mỗi người đều tái hôn vài lần. Matthew mang trong mình dòng máu Anh, Ai-len, Thụy Điển, Đức và Scotland. Anh có họ hàng với chuẩn tướng Liên bang Dandridge McRae.

McConaughey chuyển tới Longview, Texas, vào năm 1980, nơi anh vào học tại trường phổ thông Longview. Trong thời gian học tập tại đây, anh được bình chọn là người đẹp trai nhất trường trong kỷ yếu cuối năm. Năm 1988, theo chương trình trao đổi học sinh, Matthew đã chuyển tới Warnervale, New South Wales, Australia học tập trong vòng 1 năm. Kết thúc những năm tháng phổ thông, McConaughey đăng ký vào trường Đại học Texas tại Austin và tại đây anh đã tham gia vào Tổ chức huynh đệ quốc tế Delta Tau Delta. Quãng đời sinh viên của anh bắt đầu từ mùa thu năm 1989 và tốt nghiệp vào mùa xuân năm 1993 với tấm bằng Cử nhân về Phát thanh - Truyền hình - Điện ảnh.[9] Dự định ban đầu của anh là đăng ký vào trường Southern Methodist University, cho đến khi một người anh nói với anh rằng học phí của trường tư thục sẽ trở thành trở ngại kinh tế cho gia đình anh. McConaughey cũng từng dự định theo học trường luật sau khi tốt nghiệp đại học, nhưng anh ấy nhận ra rằng anh không hứng thú với việc trở thành một luật sư.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1990–2000: Tỏa sáng và đột phá

[sửa | sửa mã nguồn]

McConaughey bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 1991 khi anh xuất hiện trong các đoạn phim quảng cáo, một trong số đó là cho tờ báo thường nhật tại Austin, Texas - tờ Austin American-Statesman, và đây cũng là lần đầu tiên anh xuất hiện với một vai diễn có thoại. Câu nói "How else am I gonna keep up with my ‘Horns’?", một phản hồi tới đội bóng yêu thích Texas Longhorns đã khiến anh tạo được sự chú ý với dư luận địa phương, trước khi chính thức tham gia bộ phim đầu tiên gây ấn tượng Dazed and Confused

McConaughey lần đầu xuất hiện trên màn ảnh rộng với vai phụ "Guy 2" trong bộ phim hài kinh dị My Boyfriend's Back, công chiếu ngày 6 tháng 8, 1993. Ngày 24 tháng 9, bộ phim Dazed and Confused của Richard Linklater được công chiếu. McConaughey trong vai David Wooderson cùng với dàn diễn viên chính đã nổi tiếng sau đó, bao gồm Jason London, Ben Affleck, Milla Jovovich, Cole Hauser, Parker Posey, Adam Goldberg, Joey Lauren Adams, Nicky KattRory Cochrane.

Sau một vài vai diễn nhỏ trong Angels in the Outfield, Texas Chainsaw Massacre: The Next Generation, Boys on the Side, series truyền hình Unsolved Mysteries, và vai nam chính trong video ca khúc Walkaway Joe của Trisha Yearwood, McConaughey xuất hiện với vai diễn lớn và mang tính đột phá với vai luật sư "Jake Brigance" trong phim A Time to Kill, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn John Grisham. Cuối những năm 90, McConaughey đóng vai chính trong nhiều bộ phim điện ảnh, bao gồm Contact, Amistad, The Newton Boys, EDtv, và U-571.

2001–2011

[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu thiên niên kỷ mới, anh thường xuyên tham gia các bộ phim hài lãng mạn, bao gồm The Wedding PlannerHow to Lose a Guy in 10 Days, cả hai bộ phim này đều hết sức thành công về doanh thu. Trong giai đoạn này, anh cũng xuất hiện trong vai một lính cứu hỏa trong bộ phim kinh phí thấp Tiptoes (diễn cùng Rene Russo); với vai một đệ tử của ông trùm cờ bạc (do Al Pacino đóng) trong bộ phim Two for the Money và hóa thân vào một người điều tra về tên sát thủ giết người hàng loạt trong Frailty (diễn cùng Bill Paxton).

Năm 2005, McConaughey tham gia bộ phim Sahara cùng Penélope CuzSteve Zahn. Trước khi phát hành, anh tiết lộ rằng bộ phim đã tái hiện một số cuộc hành trình anh trải qua những năm 90, bao gồm cả chèo thuyền dọc sông Amzon và "phượt" tới Mali. Cùng năm, McConaughey được tạp chí People bình chọn là "Người đàn ông đương đại gợi tình nhất". Năm 2006, anh xuất hiện trong bộ phim hài lãng mạn Failure to Launch cùng Sarah Jessica Parker và trong We Are Marshall với vai huấn luyện viên trưởng đội bóng Marshall. Cuối năm 2006, anh đã thu âm một bài phát biểu nhằm quảng cáo cho chiến dịch Peace Corps. McConaughey cũng thay thế Owen Wilson trong bộ phim Tropic Thunder của Ben Stiller ngay sau khi WIilson bị phát hiện tự tử hụt. ngày 21 tháng 1 năm 2008, anh trở thành phát ngôn viên mới cho chiến dịch phát thanh quốc gia "Beef: It’s What’s for Dinner", thay thế Sam Elliot.

2012–nay

[sửa | sửa mã nguồn]
McConaughey tại buổi quảng bá Dallas Buyers Club tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2014

Sau một giai đoạn nghỉ ngơi, McConaughey trở lại với công việc diễn xuất. Lần này, anh không tiếp tục tham gia các phim hài lãng mạn mà tìm kiếm những vai diễn gai góc hơn. Năm 2012, McConaughey cùng Channing Tatum xuất hiện trong bộ phim Magic Mike - một bộ phim dựa trên quá trình khởi nghiệp của Tatum - với Steven Soderbergh đạo diễn. Anh cũng trở lại miền Đông Texas khi hợp tác cùng đạo diễn Richard Linklater trong bộ phim Bernie, kể về một người điều hành tang lễ tại một thị trấn nhỏ (do Jack Black đóng) đã giết một quý bà trong thị trấn. Trong phim này, McConaughey đóng vai luật sư Danny Buck Davidson. Mẹ McConaughey cũng tham gia phim này trong vai một phụ nữ đưa chuyện. Tháng 6 năm 2012, McConaughey được mời vào Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh.

Năm 2013, anh thể hiện vài một chàng cao bồi bị dính AIDS Ron Woodroof trong Dallas Buyers Club. Bộ phim thành công vang dội và thu được nhiều phản hồi tích cực, đồng thời cũng đem lại cho McConaughey nhiều giải thưởng, bao gồm giả Quả cầu vàng và tượng Oscar danh giá cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Để hóa thân trọn vẹn vào nhân vật, anh đã phải giảm 47 pound. 

Năm 2014, McConaughey tham series truyền hình True Detective của đài HBO. Đầu năm 2013, anh cũng đã xác nhận tham gia vào dự án tiếp theo của Christopher Nolan, bộ phim khoa học viễn tưởng về du hành thời gian Interstellar

Với giải Oscar đầu tiên và nhiều lời khen ngợi nhận được khi tham gia True Detective, "McConaughey dường như đã nắm bắt được những giá trị thiết yếu nhất, vẫn là bản thân mình nhưng tinh tế và mang vẻ từng trải hơn". Tờ The McConaissance tuyên bố "những lời khen ngợi ào đến khi McConaughey hướng tới những vai diễn phức tạp hơn". Ngày 4 tháng 2, năm 2014, thông tin được thông báo chính thức cho biết McConaughey sẽ tham gia vào dự án tiếp theo của Gus van Sant, Sea of Trees bên cạnh Ken Watanabe. Bộ phim Dallas Buyers Club đem lại cho McConaughey và Jared Leto tượng vàng cho 2 hạng mục Nam diễn viên chính - phụ xuất sắc nhất, trở thành bộ phim đầu tiên kể từ Mystic River (2013) đạt được thành tích này. Ngoài ra, bộ phim này còn giành được giải Oscar cho Hóa trang xuất sắc nhất và đề cử cho Phim điện ảnh xuất sắc nhất. Tới tháng 3 năm 2014, doanh thu của Dallas Buyers Club đã lên tới 32 triệu $, một con số đáng mừng khi kinh phí của bộ phim chỉ là 5 triệu $.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]
McConaughey và vợ Camila Alves năm 2010

McConaughey gặp người mẫu và người dẫn chương trình truyền hình Brasil Camilia Alves vào năm 2006. 2 người đính hôn vào ngày 25 tháng 12 năm 2011 và đám cưới tổ chức vào ngày 8 tháng 6 năm 2012 tại Austin, Texas trong một hôn lễ bí mật tại một nhà thờ Công giáo. Bọn họ có ba người con: con trai Levi Alves McConaughey (sinh ngày 7 tháng 7 năm 2008), con gái Vida Alves McConaughey (sinh ngày 3 tháng 1 năm 2010) và con trai Livinston Alves McConaughey (sinh ngày 28 tháng 12 năm 2012).

McConaughey cũng thành lập quỹ "just keep livin"[10], mục đích nhằm định hướng và giúp đỡ thanh thiếu niên tham gia các hoạt động bảo vệ sức khỏe. Anh cũng đã tham gia cứu giúp nhiều vật nuôi sau các trận lũ tại New Orleans, hậu quả của cơn bão Katrina. Năm 2006, anh cũng đã cứu một chú mèo từ 2 trẻ vị thành niên tại Shermans Oaks, California, sau khi 2 đứa trẻ ngâm con mèo trong keo xịt tóc và chuẩn bị đốt nó.

Các phim tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai diễn Ghi chú
1993 My Boyfriend's Back Guy #2
1993 Dazed and Confused David Wooderson
1994 Angels in the Outfield Ben Williams
1994 Texas Chainsaw Massacre: The Next Generation Vilmer Slaughter
1995 Boys on the Side Officer Abe Lincoln
1995 Glory Daze Rental Truck Guy
1995 Scorpion Spring El Rojo
1996 A Time to Kill Jake Tyler Brigance
1996 Lone Star Buddy Deeds
1996 Larger than Life Tip Tucker
1997 Amistad Roger Sherman Baldwin
1997 Contact Palmer Joss
1998 Making Sandwiches Bud Hoagie Phim ngắn

Đồng thời là nhà sản xuất

1998 The Newton Boys Willis Newton
1999 EDtv Ed "Eddie" Pekurny
2000 U-571 Lt. Andrew Tyler
2001 The Wedding Planner Steve "Eddie" Edison
2002 Reign of Fire Denton Van Zan
2001 Frailty Fenton/Adam Meiks
2002 Thirteen Conversations About One Thing Troy
2003 Tiptoes Steven Bedalia
2003 How to Lose a Guy in 10 Days Benjamin Barry
2005 Two for the Money Brandon Lang
2005 Sahara Dirk Pitt Đồng giám đốc sản xuất
2005 Magnificent Desolation: Walking on the Moon 3D Al Bean (lồng tiếng) Phim tài liệu
2006 Chúng ta là đội Marshall Jack Lengyel
2006 Hội chứng sợ lấy vợ Tripp
2008 Fool's Gold Ben "Finn" Finnegan
2008 Sấm nhiệt đới Rick Peck
2008 Surfer, Dude Steve Addington Đồng thời là nhà sản xuất
2009 Ghosts of Girlfriends Past Connor Mead
2011 Nhân danh công lý Mickey Haller
2011 Bernie Danny Buck Davidson
2012 Killer Joe "Killer" Joe Cooper
2012 The Paperboy Ward Jansen
2012 Mud Mud
2012 Magic Mike Dallas
2013 Dallas Buyers Club Ron Woodroof
2013 Sói già phố Wall Mark Hanna
2014 Hố đen tử thần Cooper
2015 The Sea of Trees Arthur Brennan
2016 Free State of Jones Newton Knight
2016 Kubo and the Two Strings Beetle (lồng tiếng)
2016 Đấu trường âm nhạc Buster Moon (lồng tiếng)
2016 Gold Kenny Wells Đồng thời là nhà sản xuất
2017 Tòa tháp đen tối Walter Padick
2018 White Boy Rick Richard Wershe Sr.
2019 Serenity Baker Dill
2019 The Beach Bum Moondog
2019 Between Two Ferns: The Movie Chính anh Cameo
2019 The Gentlemen Mickey Pearson Đồng thời là nhà sản xuất
2021 Đấu trường âm nhạc 2 Buster Moon (lồng tiếng)

Ghi chú

Films that have not yet been released Phim chưa phát hành

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai diễn Ghi chú
1992 Unsolved Mysteries Larry Dickens Episode #5.12
1999 King of the Hill Rad Thidbodeaux (lồng tiếng) Tập: "The Wedding of Bobby Hill"
2000 Sex and the City Chính anh Tập: "Escape from New York"
2010–2012 Eastbound & Down Roy McDaniel / Texas Scout 3 tập
2014 True Detective Rustin "Rust" Cohle 8 tập

Đồng giám đốc sản xuất

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “NLS/BPH: Other Writings, Say How? Key to Pronunciation”. Loc.gov. ngày 7 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
  2. ^ “Matthew McConaughey: from himbo to highbrow”. The Guardian. ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2013.
  3. ^ “All in the Family”. Austin Woman Magazine. ngày 26 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2014.
  4. ^ “James Donald McConaughey”. genie.com. MyHeritage Ltd. "James Donald McConaughey; Sinh: ngày 12 tháng 6, 1922 tại Uvalde, Texas, Hoa Kỳ, Mất: ngày 17 tháng 8, 1992 (70 tuổi) tại Fort Bend County, Texas"
  5. ^ “1953 Green Bay Packers”. databasefootball.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2013.
  6. ^ “The 1953 Green Bay Packers”. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2013.
  7. ^ “Matthew McConaughey Biography (1969–)”. Filmreference.com. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2009.
  8. ^ All in the Family Lưu trữ 2012-05-04 tại Wayback Machine. Austin Woman Magazine (2012-04-26). Truy cập 2013-08-25.
  9. ^ Degrees and Dates of Attendance: McConaughey, Matthew D.. University of Texas at Austin
  10. ^ “jklivin”. just keep livin Foundation (bằng tiếng Anh).

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]