Bước tới nội dung

HMS Wensleydale (L86)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục hộ tống HMS Wensleydale (L86)
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Wensleydale (L86)
Đặt tên theo rừng săn cáo Wensleydale tại Yorkshire
Đặt hàng 23 tháng 8, 1940
Xưởng đóng tàu Yarrow Shipbuilders, Scotstoun, Glasgow, Scotland
Đặt lườn 28 tháng 7, 1941
Hạ thủy 20 tháng 6, 1942
Hoàn thành 20 tháng 10, 1942
Ngừng hoạt động 11 tháng 12, 1944
Số phận Hư hại nặng do va chạm với tàu đổ bộ 21 tháng 11, 1944; tháo dỡ 1947
Đặc điểm khái quát[1]
Lớp tàu Lớp Hunt Kiểu III
Trọng tải choán nước
  • 1.050 tấn Anh (1.070 t) (tiêu chuẩn);
  • 1.435 tấn Anh (1.458 t) (đầy tải)
Chiều dài 85,3 m (279 ft 10 in) (chiều dài chung)
Sườn ngang 10,16 m (33 ft 4 in)
Mớn nước 3,51 m (11 ft 6 in)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi ống nước 3 nồi Admiralty;
  • 2 × trục;
  • công suất 19.000 shp (14.170 kW)
Tốc độ
Tầm xa 2.350 nmi (4.350 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 168
Vũ khí
Ghi chú chi phí £352.000[2]

HMS Wensleydale (L86) là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu III của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và nhập biên chế năm 1942. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi mắc tai nạn va chạm với một tàu đổ bộ LST tại Bắc Hải vào ngày 21 tháng 11, 1944. Được xem là tổn thất toàn bộ do không thể sửa chữa có hiệu quả kinh tế, con tàu bị tháo dỡ năm 1947.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Wensleydale được đặt hàng vào ngày 23 tháng 8, 1940 cho hãng Yarrow Shipbuilders tại Scotstoun, Glasgow thuộc Scotland trong Chương trình Chiến tranh Khẩn cấp 1940 và được đặt lườn vào ngày 28 tháng 7, 1941. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 6, 1942 và nhập biên chế vào ngày 20 tháng 10 năm 1942. Con tàu được cộng đồng dân cư Swinton và Pendlebury thuộc hạt Lancashire đỡ đầu trong khuôn khổ cuộc vận động gây quỹ Tuần lễ Tàu chiến năm 1942. Tên nó được đặt theo rừng săn cáo Wensleydale tại Yorkshire, và là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Anh được đặt cái tên này.[3]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

1942 - 1943

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi việc chế tạo hoàn tất, Wensleydale tiến hành chạy thử máy từ ngày 30 tháng 10, 1942, và di chuyển đến Tobermory thuộc đảo Mull, Scotland vào tháng 11 để tiếp tục được trang bị hoàn thiện. Nó sau đó đi đến Scapa Flow để gia nhập Hạm đội Nhà, và sang tháng 12 đã hộ tống các đoàn tàu vận tải cho hành trình đi sang Gibraltar; đây là một phần của hoạt động hỗ trợ tiếp theo cho Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi.[3]

Vào tháng 1, 1943, Wensleydale gia nhập Chi hạm đội Khu trục 15 đặt căn cứ tại Plymouth để tuần tra và bảo vệ các đoàn tàu vận tải tại khu vực eo biển MancheKhu vực Tiếp cận phía Tây. Trong tháng 3, nó tạm thời được phối thuộc hoạt động cùng Bộ chỉ huy Duyên hải Không quân Hoàng gia Anh và tàu chiến thuộc Khu vực Tiếp cận Tây Bắc để truy lùng tàu ngầm U-boat Đức ra vào Đại Tây Dương. Vào ngày 28 tháng 4, đang khi bảo vệ cho một đoàn tàu vận tải, nó đụng độ với các tàu phóng lôi E-boat Đức và bị hư hại do trúng ngư lôi, phải quay về cảng để sửa chữa. Khi quay trở lại hoạt động, vào ngày 29 tháng 5, nó bị hỏa lực bắn nhầm từ một xuồng máy tuần tra ven biển khiến một người thương vong. Đến ngày 10 tháng 7, nó cùng tàu chị em Melbreak (L73) và tàu khu trục hộ tống Na Uy HNoMS Glaisdale (L44) tấn công một đoàn tàu vận tải đối phương ngoài khơi Ushant, Pháp, và đụng độ với các tàu phóng lôi E-boat theo hộ tống; nó bị hư hại nhẹ trong trận này.[3]

Sau khi được sửa chữa, Wensleydale tiếp nối hoạt động hộ tống vận tải và tuần tra tại khu vực eo biển Manche cho đến ngày 3 tháng 10, khi nó cùng các tàu khu trục Limbourne (L57)Tanatside (L69) cùng các tàu chị em Grenville (R97)Ulster (R83) tham gia đợt càn quét bờ biển ngoài khơi Brittany; lực lượng phải rút lui sau khi đụng độ với năm tàu khu trục đối phương. Đến ngày 22 tháng 10, nó cùng tàu tuần dương hạng nhẹ Charybdis (88), các tàu khu trục GrenvilleRocket (H92) và các tàu chị em Limbourne, Talybont (L18)Stevenstone (L16) tham gia chiến dịch đánh chặn chiếc tàu vượt phong tỏa Münsterland, đang tìm cách vận chuyển nguyên liệu kim loại và cao su từ Brest về Đức. Trong trận Sept-Îles diễn ra đêm hôm đó, CharybdisLimbourne bị đắm do trúng ngư lôi từ tàu phóng lôi Đức. [3][4][5]

Wensleydale tiếp nối hoạt động hộ tống vận tải và tuần tra tại khu vực eo biển Manche. Vào ngày 5 tháng 2, 1944, nó cùng các tàu khu trục chị em Talybont, Brissenden (L79)Wensleydale đụng độ với một lực lượng đối phương ngoài khơi Brittany, nơi nó bị hư hại nhẹ bởi hỏa lực của một tàu phóng lôi Đức.[3]

Vào ngày 19 tháng 4, Wensleydale cùng với các tàu khu trục Tanatside, Melbreak (L73), HMCS Haida (G63)Ashanti (F51) và các xuồng phóng lôi thuộc Lực lượng Tuần duyên nhẹ đã hỗ trợ cho hoạt động rải mìn nhằm chuẩn bị cho cuộc Đổ bộ Normandy. Một hoạt động tương tự diễn ra vào ngày 25 tháng 4, khi nó cùng Tanatside bảo vệ cho một hoạt động rải mìn khác, và chịu đựng hỏa lực pháo bờ biển đối phương, nhưng không bị hư hại.[3]

Sang tháng 5, Wensleydale cùng với tàu chị em Brissenden được điều động sang Lực lượng B đặt căn cứ tại Milford Haven, trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm phía Tây dưới quyền chỉ huy chung của Hải quân Hoa Kỳ, để tham gia Chiến dịch Neptune, hoạt động hải quân trong khuôn khổ cuộc đổ bộ Normandy. Nó tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải đang tập trung lực lượng đi lại tại Khu vực Tiếp cận phía Tây và eo biển Manche. Đến ngày 5 tháng 6, Lực lượng B khởi hành từ Milford Haven để băng qua eo biển, và đến sáng ngày D 6 tháng 6 chiếc tàu khu trục đã có mặt ngoài khơi bãi Omaha hộ tống các đoàn tàu vận tải tiếp nối theo sau cuộc đổ bộ ban đầu, và sau đó tuần tra ngăn chặn chống lại sự xâm nhập quấy phá của tàu phóng lôi E-boat đối phương.[3][6][7]

Vào ngày 12 tháng 6, Wensleydale cùng với MelbreakBrissenden đụng độ với tàu E-Boat đối phương, khi hai tàu đối phương bị hư hại. Sang ngày 22 tháng 6, đang khi tuần tra cùng với Tanatside, Brissenden, tàu khu trục Beagle (H30), tàu xà lúp Londonderry (U76), tàu frigate Rowley (K560) cùng các tàu frigate của phe Pháp tự do L’Aventure (F707)L’Escarmouche (F709), nó bị máy bay ném bom Junkers Ju-88 tấn công, nhưng không chịu thiệt hại. Sau khi Chiến dịch Neptune kết thúc vào ngày 27 tháng 6, nó tiếp tục ở lại khu vực eo biển Manche tuần tra chống tàu ngầm và tàu phóng lôi đối phương.[3][6][7]

Vào ngày 3 tháng 7, Wensleydale bị hư hại nhẹ cấu trúc phần trước tàu do tai nạn va chạm với một tàu kéo; nó phải được sửa chữa trước khi tiếp tục nhiệm vụ. Đến ngày 4 tháng 8, nó phối hợp cùng tàu frigate Stayner (K573) để đánh chìm tàu ngầm U-boat U-671 ở tọa độ 50°23′B 00°06′Đ / 50,383°B 0,1°Đ / 50.383; 0.100; một số người sống sót đã được cứu vớt. Sang ngày 20 tháng 8, đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải, nó lại góp công cùng các tàu khu trục Forester (H74)Vidette (D48) trong việc đánh chìm tàu ngầm U-boat U-413 ở tọa độ 50°21′B 00°01′T / 50,35°B 0,017°T / 50.350; -0.017; một số người sống sót cũng đã được cứu vớt.[3][8]

Sang tháng 9, Wensleydale được điều sang Chi hạm đội Khu trục 21 đặt căn cứ tại Sheerness, đảm trách tuần tra và hộ tống vận tải tại khu vực eo biển Manche và Bắc Hải. Vào ngày 21 tháng 11, nó mắc tai nạn va chạm với tàu đổ bộ LST 367 và bị hư hại nặng cấu trúc, phòng động cơ và phòng bánh lái bị ngập nước nặng do các vết nứt lườn tàu. Do bị hỏng nặng quá mức có thể sửa chữa, con tàu được rút về thành phần dự bị và bị bỏ không tại West Hartlepool, trong khi thủy thủ đoàn được điều sang các con tàu mới nhập biên chế.[3]

Cuối cùng Wensleydale bị bán cho hãng BISCO vào ngày 15 tháng 2, 1946, và bị tháo dỡ tại xưởng tàu của hãng Hughes Bolckow tại Blyth vào ngày 25 tháng 2, 1947.[3][9]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lenton 1970, tr. 87
  2. ^ Brown 2006, tr. 107
  3. ^ a b c d e f g h i j k Mason, Geoffrey B. (2004). Gordon Smith (biên tập). “HMS Wensleydale (L 86) - Type III, Hunt-class Escort Destroyer”. naval-history.net. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  4. ^ Smith 1984
  5. ^ Leith 1993
  6. ^ a b Edwards 2015
  7. ^ a b Winser 1972
  8. ^ Kemp 1997
  9. ^ Critchley 1982, tr. 43

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). Luân Đôn: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
  • Critchley, Mike (1982). British Warships Since 1945: Part 3: Destroyers. Liskeard, UK: Maritime Books. ISBN 0-9506323-9-2.
  • Edwards, Kenneth (2015). Operation Neptune: The Normandy Landing, 1944. Fonthill Media. ISBN 978-1781551271.
  • English, John (1987). The Hunts: A history of the design, development and careers of the 86 destroyers of this class built for the Royal and Allied Navies during World War II. World Ship Society. ISBN 0-905617-44-4.
  • Gardiner, Robert (1987). Conway's All the World's Fighting Ships 1922-1946. Luân Đôn: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed: German Submarine Losses in World Wars. Annapolis, Maryland: US Naval Institute Press. ISBN 978-1557508591.
  • Leith, Craig (1993). Two Honourable Years: A Sailor’s Story of H.M. Cruiser Charybdis 1941-43. Craig Leith. ISBN 9780952098201.
  • Lenton, H.T. (1970). Navies of the Second World War: British Fleet & Escort Destroyers: Volume Two. Luân Đôn: Macdonald & Co. ISBN 0-356-03122-5.
  • Smith, Peter C. (1984). Hold the Narrow Seas: Naval Warfare in the English Channel 1939-1945. Moorland Publishing. ISBN 9780870219382.
  • Whitley, M. J. (1988). Destroyers of World War Two - an international encyclopedia. Luân Đôn: Arms and Armour. ISBN 0-85368-910-5.
  • Winser, John de S. (1972). D-day Ships. World Ship Society. ISBN 9780905617756.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]